Điều 5 Nghị định 218-CP năm 1961 ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước do Hội Đồng Chính Phủ ban hành
Điều 5. – Điều lệ này thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1962.
| T.M. HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ |
TẠM THỜI VỀ CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC
LỜI NÓI ĐẦU
Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và suốt trong thời kỳ kháng chiến cho đến nay, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, Chính phủ đã luôn luôn chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân lao động. Đối với công nhân, viên chức nhà nước, đi đôi với việc cải tiến chế độ tiền lương, Chính phủ đã ban hành các chế độ trợ cấp mà thực chất là chế độ bảo hiểm xã hội, như: chế độ trợ cấp khi ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, trợ cấp khi chết, đồng thời đã xây dựng nhiều bệnh viện, bệnh xá, nhà an dưỡng, điều dưỡng, nhà gửi trẻ v.v… Các chế độ và sự nghiệp có tính chất bảo hiểm xã hội này tuy mới chỉ là bước đầu nhưng đã có tác dụng rõ rệt; đã giải quyết được một phần những khó khăn trong sinh hoạt của công nhân, viên chức nhà nước, làm cho anh chị em phấn khởi đẩy mạnh sản xuất và công tác.
Từ ngày hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi hoàn thành thắng lợi kế hoạch 3 năm phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa, chúng ta đang bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, lấy công nghiệp xã hội chủ nghĩa làm nhiệm vụ trung tâm. Số công nhân, viên chức sẽ ngày càng tăng lên. Các chế độ trợ cấp xã hội hiện hành cần được bổ sung và cải tiến để phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới, nhằm phục vụ yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đáp ứng yêu cầu không ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức nhà nước.
Điều 32 của Hiến pháp được Quốc hội thông qua ngày 31 tháng 12 năm 1959 đã ghi rõ quyền của người lao động được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật, hoặc mất sức lao động. Điều lệ tạm thời này về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức nhà nước là bước đầu thực hiện điều nói trên của Hiến pháp.
Điều lệ tạm thời này về bảo hiểm xã hội bảo đảm những điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần cho công nhân, viên chức nhà nước trong những trường hợp tạm thời hay vĩnh viễn mất sức lao động và áp dụng thống nhất cho toàn thể công nhân, viên chức Nhà nước. Các chế độ đãi ngộ về bảo hiểm xã hội trong điều lệ tạm thời này chủ yếu dựa vào nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm khuyến khích mọi người tăng cường kỷ luật lao động, đẩy mạnh sản xuất, góp phần ổn định lực lượng lao động cho các ngành kinh tế quốc dân.
Điều lệ tạm thời này về các chế độ bảo hiểm xã hội được xây dựng phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, chính trị và xã hội hiện nay của nước ta, không những có tác dụng động viên công nhân, viên chức và nhân dân lao động ở miền Bắc phấn khởi nỗ lực sản xuất và công tác, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà còn làm cho công nhân, viên chức và nhân dân lao động ở miền Nam thấy rõ tính chất hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, do đó càng tăng thêm tin tưởng, tăng cường đoàn kết và đấu tranh đòi quyền sinh sống hàng ngày, đồng thời kiên quyết đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
Nghị định 218-CP năm 1961 ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước do Hội Đồng Chính Phủ ban hành
- Số hiệu: 218-CP
- Loại văn bản: Nghị định
- Ngày ban hành: 27/12/1961
- Nơi ban hành: Quốc hội
- Người ký: Phạm Văn Đồng
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 51
- Ngày hiệu lực: 01/01/1962
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
- Điều 1. – Nay ban hành, kèm theo nghị định này, điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước.
- Điều 2. – Điều lệ này thay thế tất cả những quy định trước đây về các chế độ có tính chất bảo hiểm xã hội.
- Điều 3. – Bộ Lao động, Bộ Nội vụ và Bộ Y tế quy định chi tiết thi hành điều lệ này.
- Điều 4. – Các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và Tổng Công đoàn Việt Nam hướng dẫn, đôn đốc và kiểm tra việc thi hành điều lệ này.
- Điều 5. – Điều lệ này thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1962.
- Điều 1. – Nay ban hành, kèm theo nghị định này, điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước.
- Điều 2. – Điều lệ này thay thế tất cả những quy định trước đây về các chế độ có tính chất bảo hiểm xã hội.
- Điều 3. – Bộ Lao động, Bộ Nội vụ và Bộ Y tế quy định chi tiết thi hành điều lệ này.
- Điều 4. – Các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và Tổng Công đoàn Việt Nam hướng dẫn, đôn đốc và kiểm tra việc thi hành điều lệ này.
- Điều 5. – Điều lệ này thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1962.
- Điều 6. – Công nhân, viên chức Nhà nước khi ốm đau được khám bệnh và điều trị tại những cơ sở y tế của Nhà nước. Mọi chi phí về khám bệnh, thuốc men và bồi dưỡng do Nhà nước đài thọ.
- Điều 7. – Trong suốt thời gian nghỉ việc vì ốm đau, được thầy thuốc chứng nhận, cho đến khi khỏi bệnh trở lại làm việc hay được xác nhận là không còn khả năng làm việc nữa, công nhân, viên chức nhà nước không hưởng lương mà hưởng trợ cấp quy định như sau:
- Điều 8. – Công nhân, viên chức là anh hùng lao động, anh hùng quân đội chuyển ngành, thương binh, người công tác ở miền núi và ở các nghề đặc biệt nặng nhọc, khi ốm đau, được hưởng chế độ ưu đãi như sau:
- Điều 9. – Mức trợ cấp thấp nhất cho công nhân, viên chức nhà nước khi ốm đau là 22 đồng một tháng.
- Điều 10. – Sau khi điều trị, nếu còn sức khỏe để làm việc, công nhân, viên chức sẽ được tiếp tục làm công việc cũ hoặc được bố trí công việc thích hợp, và hưởng lương theo công việc mới. Nếu vì kém sức khỏe mà phải thôi việc, thì được hưởng chế độ trợ cấp mất sức lao động nếu có đủ điều kiện.
- Điều 11. – Công nhân, viên chức nhà nước bị tai nạn không thuộc diện hưởng chế độ trợ cấp tai nạn lao động cũng được đãi ngộ như khi ốm đau.
- Điều 12. – Nữ công nhân, viên chức được thầy thuốc chứng nhận phải nghỉ việc để trông nom con nhỏ ốm đau, được hưởng trong một thời gian nhất định mức trợ cấp như khi bản thân ốm đau.
- Điều 13. – Nữ công nhân, viên chức Nhà nước được hưởng quyền lợi khám thai ở các cơ sở y tế nhà nước.
- Điều 14. – Nữ công nhân, viên chức nhà nước được nghỉ trước và sau khi đẻ tất cả là 60 ngày (kể cả chủ nhật và ngày lễ).
- Điều 15. – Nữ công nhân, viên chức nhà nước làm nghề đặc biệt nặng nhọc, ngoài thời gian nghỉ đẻ quy định chung ở điều 14, được nghỉ thêm 15 ngày.
- Điều 16. – Nữ công nhân, viên chức nhà nước đẻ non, có thầy thuốc chứng nhận, cũng được nghỉ 60 ngày.
- Điều 17. – Nữ công nhân, viên chức nhà nước bị sẩy thai, tùy theo tình hình sức khỏe được nghỉ như sau:
- Điều 18. – Trong thời gian nghỉ đẻ và nghỉ vì đẻ non hay sẩy thai, nữ công nhân, viên chức nhà nước được hưởng trợ cấp thay tiền lương bằng 100% lương kể cả phụ cấp và trợ cấp con (nếu có).
- Điều 19. – Nữ công nhân, viên chức nhà nước khi đẻ hay đẻ non, được hưởng:
- Điều 20. – Nữ công nhân, viên chức nhà nước khi sẩy thai được điều trị và bồi dưỡng ở bệnh viện theo chế độ đãi ngộ khi ốm đau. Nếu vì xa bệnh viện, bệnh xá, phải nghỉ ở nhà, thì được trợ cấp một khoản tiền bồi dưỡng là 6 đồng.
- Điều 21. – Nữ công nhân, viên chức nhà nước vì đẻ hay vì sẩy thai mà sức khỏe suy nhược, được thầy thuốc chứng nhận là không thể trở lại làm việc ngay khi hết hạn nghỉ như đã quy định ở trên, thì được đãi ngộ như khi ốm đau.
- Điều 22. – Nữ công nhân, viên chức nhà nước sau khi đẻ bị mất sửa, hoặc không được cho con bú vì mắc bệnh truyền nhiệm, được trợ cấp mỗi tháng 10 đồng cho mỗi đứa con tới khi con đủ 10 tháng.
- Điều 23. – Công nhân, viên chức nhà nước bị tai nạn lao động được hưởng chế độ đãi ngộ quy định trong tiết này.
- Điều 24. – Tiền thuốc men, bồi dưỡng, tiền phí tổn về tàu xe đi bệnh viện và ở bệnh viện về cho công nhân, viên chức nhà nước bị tai nạn lao động trong thời gian điều trị, kể cả thời gian điều trị khi vết thương tái phát, do Nhà nước đài thọ.
- Điều 25. – Công nhân, viên chức nhà nước bị tai nạn lao động được hưởng trợ cấp thay tiền lương bằng 100% lương kể cả phụ cấp (nếu có) trong suốt thời gian điều trị cho đến khi khỏi bệnh hay thành cố tật.
- Điều 26. – Công nhân, viên chức nhà nước bị tai nạn lao động được xếp hạng thương tật và hưởng trợ cấp quy định như sau, cho đến khi thương tật được chữa lành hay đến khi chết (trừ trường hợp được về hưu nói trong điều 52 của điều lệ này):
- Điều 27. – Hội đồng khám xét thương tật có nhiệm vụ xếp hạng thương tật cho công nhân, viên chức nhà nước bị tai nạn lao động.
- Điều 28. – Công nhân, viên chức nhà nước bị tai nạn lao động mất từ 70% sức lao động trở xuống, nếu không thể tiếp tục công việc cũ, thì được bố trí công việc mới hợp với khả năng và hưởng lương theo công việc mới.
- Điều 29. – Đối với công nhân, viên chức nhà nước bị tai nạn lao động, không còn khả năng làm việc, nếu mức trợ cấp hàng tháng tính theo điều 26 trên đây không đủ 22 đồng thì được nâng lên bằng mức đó.
- Điều 30. – Công nhân, viên chức nhà nước bị tai nạn lao động nói ở điều 29, khi mới thôi việc được trợ cấp thêm một khoản tiền lĩnh làm một lần, bằng một tháng lương, kể cả phụ cấp và trợ cấp con (nếu có).
- Điều 31. – Công nhân, viên chức nhà nước bị có tật vì tai nạn lao động, nếu được chuyển sang học nghề mới, thì trong thời gian học nghề, ngoài phụ cấp thương tật hàng tháng, được hưởng sinh hoạt phí theo chế độ đối với công nhân, viên chức được cử đi học nghề. Nhưng cả hai khoản cộng lại không được quá 100% lương chính khi bị tai nạn. Sau khi học thành nghề, sẽ hưởng lương theo công việc mới và trợ cấp thương tật hàng tháng của mình.
- Điều 32. – Khi công nhân, viên chức nhà nước chết vì tai nạn lao động hay do vết thương vì tai nạn lao động cũ, thì thân nhân được trợ cấp tiền chi phí về chôn cất và tiền tuất quy định ở các điều 55, 56 và 58 của điều lệ tạm thời này.
- Điều 33. – Các điều quy định trong tiết này áp dụng chung cho mọi công nhân, viên chức nhà nước, kể cả những người làm việc tạm thời theo thời vụ, theo hợp đồng trong một thời gian ngắn.
- Điều 34. – Bộ Y tế, Bộ Lao động và Bộ Nội vụ sẽ quy định chế độ đãi ngộ về các loại bệnh nghề nghiệp.
- Điều 35. – Công nhân, viên chức nhà nước mất sức lao động vì đau ốm, vì tai nạn không thuộc diện hưởng chế độ trợ cấp về tai nạn lao động, hoặc vì già, yếu nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ trợ cấp hưu trí, phải thôi việc, khi đã công tác liên tục từ 5 năm trở lên, được hưởng trợ cấp quy định như sau cho đến khi sức khỏe hồi phục hay chết:
- Điều 36. – Mức trợ cấp thấp nhất cho công nhân, viên chức nhà nước có thời gian công tác liên tục từ 5 năm trở lên mất sức lao động phải thôi việc là 15 đồng một tháng.
- Điều 37. – Công nhân, viên chức Nhà nước mất sức lao động phải thôi việc, khi mới thôi việc được trợ cấp thêm một khoản tiền bằng một tháng lương kể cả phụ cấp và trợ cấp con (nếu có).
- Điều 38. – Công nhân, viên chức Nhà nước có thời gian công tác liên tục từ 5 năm trở lên mất sức lao động đã thôi việc, khi ốm đau được khám và chữa bệnh tại các cơ sở y tế thuộc địa phương nơi cư trú, được hưởng chế độ thuốc men và bồi dưỡng; khi chết được trợ cấp tiền chi phí về chôi cất theo quy định ở điều 55 của điều lệ tạm thời này.
- Điều 39. – Tính từ ngày thôi việc, cứ hai năm một lần, công nhân, viên chức nhà nước mất sức lao động sẽ được Hội đồng Giám định y khoa nơi cư trú khám lại. Căn cứ vào kết luận của Hội đồng Giám định y khoa, cơ quan quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở địa phương sẽ quyết định việc ngừng hoặc tiếp tục trợ cấp mất sức lao động.
- Điều 40. – Công nhân, viên chức nhà nước mất sức lao động phải thôi việc, mà đã công tác liên tục dưới 5 năm, được trợ cấp một lần, cứ mỗi năm bằng một tháng lương; nhưng thấp nhất cũng bằng hai tháng lương, kể cả phụ cấp và trợ cấp con (nếu có).
- Điều 41. – Những công nhân, viên chức nhà nước mất sức lao động đã thôi việc và đang hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng theo thông tư số 13-TTg ngày 07 tháng 01 năm 1960, nếu tính đến ngày thôi việc có đủ điều kiện quy định ở điều 35, thì nay được hưởng chế độ trợ cấp quy định ở tiết này.
- Điều 42. – Công nhân, viên chức nhà nước nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi được về hưu. Ngoài điều kiện tuổi nói trên công nhân, viên chức có đủ điều kiện sau đây được hưởng chế độ trợ cấp hưu trí:
- Điều 43. – Công nhân, viên chức nhà nước nam 55 tuổi, có thời gian công tác nói chung 20 năm, thời gian công tác liên tục 5 năm, nữ 50 tuổi, có thời gian công tác nói chung 15 năm, thời gian công tác liên tục 5 năm, làm việc đặc biệt nặng nhọc hay có việc hại sức khỏe liền trong 10 năm, cũng được hưởng chế độ trợ cấp hưu trí.
- Điều 44. – Công nhân, viên chức nhà nước có đủ điều kiện về tuổi, tuy chưa đủ điều kiện về thời gian công tác nói chung, nhưng thời gian công tác liên tục đủ 15 năm, cũng được hưởng chế độ trợ cấp hưu trí.
- Điều 45. – Công nhân, viên chức nhà nước nam 55 tuổi, nữ 50 tuổi, ốm yếu, không còn khả năng lao động, nếu thời gian công tác liên tục đủ 15 năm, cũng được hưởng chế độ trợ cấp hưu trí.
- Điều 46. – Kể từ ngày về hưu cho tới khi chết, công nhân viên chức nhà nước đủ điều kiện hưởng chế độ trợ cấp hưu trí được lĩnh trợ cấp hàng tháng như sau:
- Điều 47. – Công nhân, viên chức nhà nước có công lao, có thành tích lớn, anh hùng lao động, anh hùng quân đội chuyển ngành, ngoài trợ cấp được hưởng theo điều 46, hàng tháng còn được thêm một khoản trợ cấp ưu đãi từ 5% đến 15% lương chính do Bộ Nội vụ và Bộ Lao động quyết định.
- Điều 48. – Công nhân, viên chức nhà nước về hưu được bảo đảm mức sinh hoạt thấp nhất ấn định là 22 đồng một tháng.
- Điều 49. – Công nhân, viên chức nhà nước khi về hưu nếu không có nơi nương tựa, được thu nhận vào nhà dưỡng lão.
- Điều 50. – Công nhân, viên chức nhà nước khi về hưu trợ cấp thêm một khoản tiền bằng một tháng lương kể cả phụ cấp và trợ cấp con (nếu có).
- Điều 51. – Công nhân, viên chức nhà nước được hưởng chế độ hưu trí, ở với gia đình hay ở nhà dưỡng lão, khi ốm đau được khám và chữa bệnh tại các cơ sở y tế thuộc địa phương nơi cư trú, được hưởng chế độ thuốc men và bồi dưỡng; khi chết được trợ cấp tiền chi phí về chôn cất theo quy định ở điều 55 và những thân nhân do người đó khi còn sống phải nuôi dưỡng được hưởng tiền tuất hàng tháng quy định ở điều 61.
- Điều 52. – Công nhân, viên chức nhà nước về hưu, nếu có trợ cấp thương tật, thì hàng tháng ngoài trợ cấp hưu trí, còn được thêm 10 của trợ cấp thương tật.
- Điều 53. – Công nhân, viên chức nhà nước đủ điều kiện về hưu trí, nhưng do yêu cầu công tác, được lưu lại để làm việc, thì không được hưởng trợ cấp hưu trí.
- Điều 54. – Những công nhân, viên chức nhà nước già, yếu, mất sức lao động đã thôi việc và đang hưởng trợ cấp hàng tháng quy định ở thông tư số 13-TTg ngày 07 tháng 01 năm 1960 nếu tính đến ngày thôi việc đã đủ điều kiện hưởng chế độ trợ cấp hưu trí, thì được hưởng chế độ trợ cấp quy định ở tiết này.
- Điều 55. – Khi công nhân, viên chức nhà nước chết, thì thân nhân được cấp một khoản tiền chi phí về chôn cất. Chi tiết thi hành điều này sẽ do các Bộ Lao động và Nội vụ quy định.
- Điều 56. – Khi công nhân, viên chức nhà nước chết, thì thân nhân, ngoài trợ cấp về chôn cất và tiền tuất, được trợ cấp một số tiền căn cứ vào thời gian đã công tác liên tục của người chết, cứ mỗi năm bằng 50% của một tháng lương; mức trợ cấp này cao nhất không quá 02 tháng lương, kể cả phụ cấp và trợ cấp con (nếu có). Nếu người chết chưa có đủ thời gian công tác liên tục để hưởng tiền tuất thì cứ mỗi năm công tác được trợ cấp một tháng lương.
- Điều 57. – Thân nhân của công nhân, viên chức nhà nước được hưởng khoản trợ cấp nói ở điều 56 là vợ hay chồng, dù không phải sống nương tựa vào người đã chết; nếu không còn vợ hay chồng, thì phải là thân nhân gần nhất mà công nhân, viên chức lúc còn sống phải nuôi dưỡng. Nếu công nhân, viên chức chết không còn thân nhân gần nhất thì không trợ cấp.
- Điều 58. – Khi công nhân, viên chức nhà nước chết, ngoài khoản trợ cấp quy định ở điều 55 và 56, nếu đã công trình liên tục từ 05 năm trở lên và tổng số thu nhập của gia đình bị sụt từ 60% trở lên, thì thân nhân mà người đó khi còn sống phải nuôi dưỡng được hưởng tiền tuất hàng tháng quy định như sau:
- Điều 59. – Thân nhân của công nhân, viên chức nhà nước chết được hưởng tiền tuất phải là những người không có sức lao động bao gồm cả những người dưới 16 tuổi (nếu còn đang đi học thì đến hết 18 tuổi) mà trước khi chết, người công nhân, viên chức phải nuôi dưỡng.
- Điều 60. – Khi công nhân, viên chức nhà nước chết về tai nạn lao động, thì dù chưa đủ 05 năm công tác liên tục, thân nhân cũng được hưởng tiền tuất theo quy định ở điều 58.
- Điều 61. – Công nhân viên chức nhà nước đã về hưu trí hay về an dưỡng do bị tai nạn lao động mà chết, thì thân nhân không có sức lao động trước đây sống nhờ vào trợ cấp hưu trí hay trợ cấp thương tật của người chết, được hưởng tiền tuất hàng tháng như quy định ở điều 58. Tiền tuất sẽ căn cứ vào trợ cấp hưu trí hay trợ cấp thương tật để tính.
- Điều 62. – Tất cả những danh từ đã dùng để chỉ thời gian làm việc của công nhân, viên chức nhà nước, như: tuổi nghề, tuổi ngành, thâm niên công tác, thâm niên cách mạng, v.v… nay gọi thống nhất là thời gian công tác. Có hai loại thời gian công tác; thời gian công tác nói chung và thời gian công tác liên tục.
- Điều 63. – Thời gian công tác nói chung của công nhân, viên chức nhà nước là gồm tất cả thời gian người đó đã thoát ly kinh tế gia đình để đi làm việc, lấy lương hay sinh hoạt phí làm nguồn sống chính và công việc làm có tác dụng phục vụ lợi ích chung của xã hội (kể cả thời gian làm việc dưới chế độ cũ).
- Điều 64. – Thời gian công tác liên tục của công nhân, viên chức nhà nước là thời gian người đó làm việc liên tục dưới chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa, tại một cơ quan, xí nghiệp, công trường nông trường, lâm trường; thời gian hoạt động liên tục cho cách mạng trước ngày 02 tháng 09 năm 1945 và thời gian tham gia liên tục quân đội tình nguyện cũng được tính vào thời gian công tác liên tục.
- Điều 65. – Chi tiết về cách tính thời gian công tác nói chung thời gian công tác liên tục của công nhân, viên chức nhà nước sẽ do Bộ Lao động và Bộ Nội vụ quy định.
- Điều 66. – Để bảo đảm việc chi tiêu cho các chế độ bảo hiểm xã hội và các sự nghiệp bảo hiểm xã hội, nay thành lập quỹ bảo hiểm xã hội của nhà nước.
- Điều 67. – Tổng công đoàn Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý quỹ bảo hiểm xã hội và toàn bộ sự nghiệp bảo hiểm xã hội của công nhân, viên chức Nhà nước, cụ thể là:
- Điều 68. – Hàng tháng, cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường phải trích nộp cho quỹ bảo hiểm xã hội một số tiền bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với tổng quỹ tiền lương của công nhân, viên chức. Tỷ lệ này do Hội đồng Chính phủ ấn định.
- Điều 69. – Tiền quỹ bảo hiểm xã hội phải gửi vào Ngân hàng Nhà nước và chịu sự quản lý tiền mặt của Ngân hàng.
- Điều 70. – Ở mỗi cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường, sẽ thành lập một Ban Bảo hiểm xã hội đặt dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Công đoàn cơ sở. Ban Bảo hiểm xã hội này có trách nhiệm đôn đốc việc trích nộp quỹ bảo hiểm xã hội, và quyết định việc chi cấp tiền bảo hiểm xã theo thể lệ đã ban hành, kiểm tra việc thu, chi các khoản tiền bảo hiểm xã hội.
- Điều 71. – Cơ quan Tài chính các cấp có trách nhiệm giám đốc sự chi tiêu quỹ bảo hiểm xã hội, hướng dẫn, giúp đỡ cơ quan quản lý quỹ thi hành đúng thể lệ tài chính của Nhà nước.
- Điều 72.