Điều 11 Nghị định 112-HĐBT năm 1984 về việc thu thủy lợi phí do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Nghị định 112-HĐBT năm 1984 về việc thu thủy lợi phí do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
- Số hiệu: 112-HĐBT
- Loại văn bản: Nghị định
- Ngày ban hành: 25/08/1984
- Nơi ban hành: Quốc hội
- Người ký: Tố Hữu
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 16
- Ngày hiệu lực: 09/09/1984
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
- Điều 1. Mọi tổ chức và cá nhân được hưởng lợi về tưới nước, tiêu nước hoặc các dịch vụ khác từ các công trình thuỷ nông do Nhà nước quản lý đều phải trả thuỷ lợi phí cho các xí nghiệp thuỷ nông.
- Điều 2. Thuỷ lợi phí gồm các khoản:
- Điều 3. Việc phân bổ thuỷ lợi phí cho mỗi đơn vị diện tích được hưởng lợi về nước căn cứ theo các nguyên tắc sau đây:
- Điều 4. Thuỷ lợi phí tính bằng thóc.
- Điều 5. Căn cứ nguyên tắc ghi ở Điều 2, Điều 3 và Điều 4, mức thu thuỷ lợi phí (tính theo tỷ lệ phần trăm trên sản lượng trung bình của ruộng đất) đối với một đơn vị diện tích trồng lúa tưới tiêu chủ động quy định như sau:
- Điều 6. Đối những diện tích trồng rau, màu, cây công nghiệp ngắn ngày (kể cả cây vụ đông), cây lâu năm, nếu có yêu cầu tưới tiêu thì thu bằng 40% mức thu đối với diện tích trồng lúa.
- Điều 7. Phục vụ vận tải trên hệ thống thủy nông cứ mỗi chuyến thuyền qua cầu, cống, tuỳ theo loại thuyền, bè, sà lan lớn nhỏ, thu bằng tiền tương đương từ 5 đến 30 kilôgam thóc.
- Điều 8. Kinh doanh nuôi thuỷ sản trên hệ thống thuỷ nông, cứ mỗi hécta mặt nước, thu bằng tiền tương đương từ 5 đến 10 kilôgam thóc/năm.
- Điều 9. Nếu việc phục vụ tưới tiêu không đạt những tiêu chuẩn, định mức ghi trong hợp đồng làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của bên sử dụng nước thì xí nghiệp thuỷ nông bị phạt, thuỷ lợi phí giảm đi tương ứng.
- Điều 10. Trong trường hợp thiên tai gây thiệt hại nặng cho mùa màng, Nhà nước miễn giảm thuỷ lợi phí theo các mức như sau:
- Điều 11. Các xí nghiệp thủy nông phải cùng các hộ sử dụng nước ký kết hợp đồng kinh tế hàng năm và từng vụ, trong đó ghi rõ diện tích tưới tiêu, các tiêu chuẩn, định mức về chất lượng tưới tiêu, các quy định về thưởng, phạt và thanh toán. Cuối mỗi vụ sản xuất, phải cùng bên sử dụng nước đánh giá kết quả thực hiện hợp đồng, xác định số thuỷ lợi phí phù hợp với kết quả thực hiện hợp đồng: trên cơ sở đó, lập sổ thu báo cáo Ủy ban nhân dân huyện (hoặc cấp tương đương) duyệt. Sau khi được Uỷ ban nhân dân huyện duyệt thì tiến hành thu.
- Điều 12. Sở Thuỷ lợi căn cứ vào kế hoạch thu thuỷ lợi phí của các xí nghiệp thủy nông để lập kế hoạch thu thuỷ lợi phí của tỉnh, báo cáo với Uỷ ban nhân dân tỉnh.
- Điều 13. Số thuỷ lợi phí thu bằng thóc (hoặc lương thực khác) phải giao toàn bộ cho ngành lương thực do ngành lương thực trực tiếp nhận của các nông trường, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và hộ nông dân cá thể. Căn cứ vào số thu do các xí nghiệp thuỷ nông cung cấp. Ngành lương thực thanh toán cho các xí nghiệp thuỷ nông theo giá chỉ đạo thu mua của Nhà nước.
- Điều 14. Các xí nghiệp thuỷ nông phải thực hiện hạch toán kinh tế dựa trên số thuỷ lợi phí thu được (bao gồm số thuỷ lợi phí bằng thóc quy ra tiền và số thuỷ lợi phí trực tiếp bằng tiền). Xí nghiệp phải sử dụng nhiều nguồn thu một cách tiết kiệm, đồng thời dành một phần để dự phòng cho những năm thiên tai, chi phí tăng. Riêng khoản thu thuộc về khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn thì tập trung vào quỹ thuỷ nông của tỉnh để Uỷ ban nhân dân tỉnh phân phối theo nhu cầu thực tế mỗi năm về đổi mới máy móc thiết bị và sửa chữa lớn.
- Điều 15. Thành lập quỹ thuỷ nông của tỉnh từ các nguồn sau: khoản thu thuộc về khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn do các xí nghiệp thuỷ nông nộp vào, khoản thu điều tiết từ các xí nghiệp có những điều kiện khách quan thuận lợi. Quỹ này do Uỷ ban nhân dân tỉnh quản lý (hoặc ủy quyền cho Sở thuỷ lợi quản lý), sử dụng chủ yếu vào các việc sửa chữa lớn và đổi mới máy móc, thiết bị; sửa chữa lớn các công trình xây đúc và bằng đất; hỗ trợ cho những xí nghiệp do khó khăn về điều kiện khách quan mà nguồn thu không đủ bảo đảm các nhu cầu chi; dự phòng cho những năm thiên tai, chi phí tăng nhưng nguồn thu thì giảm.
- Điều 16. Nghị định này thi hành từ vụ mùa năm 1984.
- Điều 17.