Hệ thống pháp luật

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 6720/BKHĐT-QLĐT
V/v hướng dn thực hiện pháp luật đấu thầu

Hà Nội, ngày 17 tháng 9 năm 2019

 

Kính gửi: Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng quận Liên Chiểu

Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận được văn bản số 7600/VPCP-ĐMDN ngày 24/8/2019 của Văn phòng chính phủ về việc xem xét kiến nghị trong đấu thầu của Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng quận Liên Chiểu. Sau khi nghiên cứu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến trả lời như sau:

Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 15 khoản 1) quy định việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu, căn cứ vào hồ sơ dự thầu đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Thông tư số 04/2017/TT-BKHĐT ngày 15/11/2017 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì E-HSMT, biên bản mở thầu, E-HSDT, kèm theo các văn bản làm rõ E-HSMT, E-HSDT là cơ sở pháp lý để đánh giá E-HSDT của nhà thầu.

Đối với vấn đề của Quý Ban, việc đánh giá E-HSDT được thực hiện theo quy định nêu trên và thuộc trách nhiệm của bên mời thầu, tổ chuyên gia. Tuy nhiên, do nội dung hỏi của Quý Ban không đủ rõ nên cần xem xét theo các hướng sau:

- Trường hợp theo quyết định phê duyệt E-HSMT (bản giấy) quy định thời gian thực hiện hợp đồng tối đa là 150 ngày nhưng trong E-HSMT phát hành trên hệ thống lại quy định thời gian thực hiện hợp đồng là 120 ngày thì việc đánh giá E-HSDT phải căn cứ vào quy định trong E-HSMT đã phát hành trên hệ thống. Theo đó, trong trường hợp này, nếu nhà thầu đề xuất thời gian thực hiện hợp đồng là 150 ngày thì được đánh giá là không đáp ứng yêu cầu của E-HSMT.

- Trường hợp quy định về thời gian thực hiện hợp đồng trong E-HSMT phát hành trên hệ thống có sự không thống nhất (ví dụ trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu, thông báo mời thầu, bảng dữ liệu ghi thời gian thực hiện hợp đồng là 150 ngày nhưng trong tiêu chuẩn đánh giá kỹ thuật ghi 120 ngày) thì đây là lỗi của chủ đầu tư, bên mời thầu dẫn đến không có cơ sở đế đánh giá về thời gian thực hiện hợp đồng và được coi là tình huống phát sinh trong đấu thầu có tính chất phức tạp. Trong trường hợp này, chủ đầu tư chịu trách nhiệm xử lý tình huống trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch, hiệu quả kinh tế và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình (Điều 86 Luật đấu thầukhoản 15 Điều 117 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP).

Trên đây là ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trên cơ sở các thông tin được cung cấp tại văn bản số 7600/VPCP-ĐMDN ngày 24/8/2019 của Văn phòng Chính phủ./.

 


Nơi nhận:
- Như trên (Số 168, Nguyễn Sinh Sắc, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng);
- Văn phòng Chính phủ;
- Cổng Thông tin điện tử Chính phủ;
- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam;
- Lưu VT, Cục QLĐT (Đ6).

TL. BỘ TRƯỞNG
CỤC TRƯỞNG CỤC QUẢN LÝ ĐẤU THẦU




Nguyễn Đăng Trương

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Công văn 6720/BKHĐT-QLĐT năm 2019 hướng dẫn thực hiện pháp luật đấu thầu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành

  • Số hiệu: 6720/BKHĐT-QLĐT
  • Loại văn bản: Công văn
  • Ngày ban hành: 17/09/2019
  • Nơi ban hành: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
  • Người ký: Nguyễn Đăng Trương
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: Kiểm tra
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
Tải văn bản