Để sử dụng toàn bộ tiện ích nâng cao của Hệ Thống Pháp Luật vui lòng lựa chọn và đăng ký gói cước.
Nếu bạn là thành viên. Vui lòng ĐĂNG NHẬP để tiếp tục.
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 07/2003/CT-VKSTC-VP | Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2003 |
VỀ CÔNG TÁC CỦA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN NĂM 2004
Năm 2004, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị, thực hiện Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2004 của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ tư, quán triệt và triển khai thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự mới, Viện kiểm sát nhân dân tối cao xác định công tác trọng tâm của toàn ngành năm 2004 là: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động ngành Kiểm sát nhân dân; khẩn trương triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng hình sự mới trong toàn ngành nâng cao trách nhiệm trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; phối hợp với các cơ quan tư pháp đấu tranh có hiệu quả đối với các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm về tham nhũng, buôn lậu, ma tuý và các loại tội phạm có tổ chức, bảo đảm việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và việc điều tra, truy tố, xét xử, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; tăng cường công tác kiểm sát thi hành án, phối hợp với các cơ quan chức năng có biện pháp đẩy nhanh tiến độ thi hành các bản án, quyết định về hình sự, dân sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành; quản lý chặt chẽ và giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát, tiến hành kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp. Củng cố và tăng cường năng lực hoạt động cho các Viện kiểm sát, nhất là đối với cấp huyện, xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh.
I- CÁC NHIỆM VỤ VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
1- Về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự
* Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự:
Viện kiểm sát các cấp phối hợp chặt chẽ với các ngành nắm chắc thông tin về tội phạm, giải quyết kịp thời, chính xác các tin báo, tố giác về tội phạm; chấp hành nghiêm chỉnh chế độ trực nghiệp vụ, bảo đảm phát hiện và xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội; kiểm sát chặt chẽ việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bảo đảm việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can có căn cứ và đúng pháp luật. Từ ngày 1/7/2004 các Viện kiểm sát thực hiện việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mới.
Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp phân công Kiểm sát viên kiểm sát điều tra, theo dõi chặt chẽ quá trình điều tra để chủ động đề ra yêu cầu điều tra ngay từ khi khởi tố vụ án, hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp khởi tố bị can sai, sau đó đình chỉ điều tra do bị can không phạm hoặc đình chỉ điều tra để lọt tội phạm. Đối với những trường hợp đình chỉ do khởi tố oan hoặc đình chỉ dẫn đến lọt tội thì tập thể lãnh đạo Viện phải nghe kỹ, tìm ra nguyên nhân, trách nhiệm để kiểm điểm, xử lý nghiêm túc. Đối với các vụ án trọng điểm phức tạp, Viện trưởng Viện kiểm sát phải trực tiếp chỉ đạo thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra ngay từ đầu và trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Đối với những vụ trọng án không quả tang, cần khám nghiệm hiện trường để thu thập chứng cứ thì lãnh đạo Viện kiểm sát phải trực tiếp tham gia. Viện kiểm sát các cấp phải theo dõi chặt chẽ tiến độ giải quyết vụ án để có những biện pháp bảo đảm hoạt động điều tra, truy tố đúng thẩm quyền, đúng thời hạn luật định, hạn chế đến mức thấp nhất việc để quá thời hạn điều tra và thời hạn truy tố.
Viện kiểm sát các cấp cần nâng cao trách nhiệm trong việc quyết định và phê chuẩn quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhất là các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo đảm việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn có căn cứ, đúng pháp luật. Đối với các trường hợp phức tạp, khó khăn trong việc xác định căn cứ để quyết định hoặc phê chuẩn việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp xem xét, quyết định.
Theo Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng hình sự, từ ngày 1/7/2004 những Toà án cấp huyện đủ điều kiện sẽ thực hiện việc tăng thẩm quyền xét xử. Theo tinh thần đó, ở những nơi Toà án cấp huyện thực hiện thẩm quyền xét xử mới thì Viện kiểm sát cũng thực hiện việc tăng thẩm quyền khi thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự. Do vậy, đối với những Viện kiểm sát này, từ ngày 1/7/2004 thực hiện các quy định về việc quyết định và phê chuẩn lệnh tạm giam, gia hạn tạm giam, gia hạn điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mới. Đối với những Viện kiểm sát cấp huyện chưa thực hiện việc tăng thẩm quyền thì vẫn thực hiện các thẩm quyền này theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988.
Các Viện kiểm sát phải nâng cao trách nhiệm trong việc bắt khẩn cấp để bảo đảm việc bắt khẩn cấp có căn cứ và đúng pháp luật. Kể từ 1/7/2004 các Viện kiểm sát thực hiện nghiêm túc quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mới là trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp.
Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những sai sót trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhất là các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam xảy ra ở địa phương mình. Phấn đấu không để xảy ra việc người bị tạm giam không có lệnh tạm giam hợp pháp.
Viện kiểm sát các cấp chủ động phối hợp với các cơ quan tư pháp nhằm đấu tranh có hiệu quả đối với các loại tội phạm. Tập trung đẩy nhanh tiến độ giải quyết án, nhất là đối với những vụ án lớn, án trọng điểm về tham nhũng. Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp Viện kiểm sát truy tố oan. Khi quyết định truy tố đối với các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, các vụ án đặc biệt nghiêm trọng hoặc đối với các vụ án phức tạp về chứng cứ, quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau hay các vụ án được dư luận đặc biệt quan tâm thì cần đưa ra tập thể lãnh đạo Viện hoặc Uỷ ban kiểm sát xem xét và Viện trưởng phải là người quyết định việc truy tố. Hạn chế đến mức thấp nhất việc Toà án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để yêu cầu điều tra bổ sung. Đối với các vụ án do Toà án trả lại yêu cầu điều tra bổ sung cần kịp thời kiểm tra, phân tích rõ lý do hoàn trả, xác định đúng, sai để có biện pháp xử lý, đồng thời, làm rõ nguyên nhân của việc trả hồ sơ để khắc phục.
Từ ngày 1/7/2004, các Viện kiểm sát thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mới về thẩm quyền ra quyết định đình chỉ. Theo đó, tất cả các quyết định đình chỉ điều tra sẽ do cơ quan điều tra thực hiện, Viện kiểm sát chỉ xem xét, quyết định đình chỉ vụ án sau khi Cơ quan điều tra đã kết thúc điều tra chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát đề nghị truy tố. Đối với các vụ án do cơ quan điều tra đình chỉ điều tra, sau khi nhận được hồ sơ vụ án cùng quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền. Nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố.
Viện kiểm sát cấp tỉnh quản lý chặt chẽ số án đình chỉ, nhất là số án đình chỉ do bị can không phạm tội của cấp mình và cấp huyện để báo cáo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đồng thời tiến hành kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của những cá nhân, đơn vị đã để xảy ra oan hoặc đình chỉ không đúng dẫn đến bỏ lọt tội phạm. Viện kiểm sát các cấp phối hợp với cơ quan điều tra xác định rõ thực trạng việc khởi tố, điều tra sau đó đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội để bàn biện pháp khắc phục, nhất là các trường hợp hình sự hoá các quan hệ dân sự, kinh tế; có biện pháp quản lý và thường xuyên yêu cầu cơ quan điều tra hoặc tự mình rà soát số vụ án tạm đình chỉ điều tra để kịp thời phục hồi điều tra khi có đủ căn cứ.
* Công tác điều tra của cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao:
Cục điều tra có trách nhiệm tiếp nhận, thu thập và xác minh các tin báo, tố giác về một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền điều tra của mình. Viện kiểm sát các cấp, các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi hoạt động của mình có trách nhiệm thông báo ngay cho Cục điều tra những thông tin tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cục điều tra. Khi xử lý tin báo, tố giác về tội phạm, Cục điều tra phải xem xét, quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án theo quy định của pháp luật và thông báo cho các cơ quan, đơn vị, cá nhân đã cung cấp thông tin tội phạm về quyết định của mình. Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác điều tra, bảo đảm các vụ án đã khởi tố đều được truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Cục điều tra có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện Quy chế 144/ QĐ-ĐT/2003 ngày 7/11/2003 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về xử lý tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và dự báo tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp để tham mưu với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về các biện pháp tăng cường công tác thực hành quyền công tố, đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.
* Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự:
Viện kiểm sát các cấp cần có biện pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà. Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố tại phiên toà cần nghiên cứu kỹ hồ sơ, chuẩn bị trước đề cương thẩm vấn, tranh luận, dự thảo luận tội hoặc kết luận. Tại phiên toà Kiểm sát viên phải chủ động trong việc tham gia thẩm vấn, tranh luận theo tinh thần của Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị và Bộ luật tố tụng hình sự mới. Trong quá trình xét xử nếu có tình tiết mới phát sinh làm cho việc đánh giá tính chất vụ án thay đổi cơ bản so với trước thì Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà kịp thời báo cáo lãnh đạo Viện xem xét, quyết định. Trong trường hợp không thể báo cáo được thì Kiểm sát viên tự quyết định và thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Quy chế Kiểm sát xét xử hình sự. Phải kịp thời kháng nghị đối với những bản án, quyết định của Toà án có vi phạm pháp luật, bảo đảm việc kháng nghị có căn cứ, đúng pháp luật.
Cần có các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng Viện kiểm sát truy tố, Toà án tuyên không phạm tội. Đối với các trường hợp Toà án tuyên không phạm tội cần phân tích cụ thể từng trường hợp theo mỗi giai đoạn xét xử ở từng cấp. Nếu Toà án tuyên không phạm tội là không đúng thì Viện kiểm sát phải kịp thời kháng nghị. Tất cả các trường hợp Toà án tuyên không phạm tội cần được quản lý chặt chẽ, báo cáo đầy đủ lên Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố phải tổng hợp báo cáo lên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng các Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao về những trường hợp Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tuyên không phạm tội. Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự có trách nhiệm tổng hợp đầy đủ các trường hợp Toà án tuyên không phạm tội ở các giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, trong đó phân tích rõ các trường hợp Viện kiểm sát đã kháng nghị, không kháng nghị, các trường hợp Toà án chấp nhận kháng nghị, không chấp nhận kháng nghị để báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong trường hợp Toà án tuyên không phạm tội thuộc trường hợp oan theo quy định tại Nghị quyết 388 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì phải kịp thời kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của đơn vị và cá nhân để xem xét, xử lý. Vụ 3 Viện kiểm sát nhân dân tối cao giúp lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo dõi, chỉ đạo việc kiểm điểm các trường hợp để xảy ra oan do Toà án tuyên không phạm tội.
Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự có trách nhiệm theo dõi, quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra về nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự; sơ kết, tổng kết công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát các cấp và định kỳ báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong quý I năm 2004 Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự phối hợp với các cơ quan và đơn vị hữu quan tiến hành sơ kết hai năm tổ chức các phiên toà theo tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị. Trên cơ sở đó hướng dẫn các Viện kiểm sát địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo đúng tinh thần của Nghị quyết 08 và các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Về việc thực hiện Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội:
Viện kiểm sát các cấp tổ chức quán triệt tới tất cả cán bộ, Kiểm sát viên Nghị quyết 388 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Nghị quyết trên khi Thông tư được ban hành. Trong quý 1 năm 2004, Viện kiểm sát các cấp hoàn thành việc kiểm điểm trách nhiệm và xử lý cán bộ có liên quan tới các trường hợp đình chỉ do bị can không phạm tội thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát và các trường hợp Viện kiểm sát truy tố oan dẫn đến Toà án tuyên không phạm tội của năm 2002 và năm 2003 để báo cáo Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Việc xử lý phải thực hiện nghiêm túc, tránh xuê xoa, hình thức. Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự có trách nhiệm theo dõi, tổng hợp và định kỳ báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc thực hiện Nghị quyết 388 của Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
* Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù:
Tăng cường kiểm sát thường kỳ và bất thường tại nhà tạm giữ, trại tạm giam và trại giam nhằm bảo đảm việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật. Viện kiểm sát cấp huyện hàng ngày kiểm sát nhà tạm giữ, báo cáo Viện kiểm sát cấp tỉnh về số người bị bắt, tạm giữ, tạm giam và kết quả xử lý. Viện kiểm sát cấp tỉnh, thành phố hàng tuần kiểm sát trại tạm giam, quản lý, theo dõi và báo cáo Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tình hình bắt giữ, xử lý trong tuần. Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp trực tiếp kiểm sát nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam theo quy định tại Chỉ thị số 03/2002/CT-VKSTC ngày 23/1/2002 và Chỉ thị số 02/2003/CT-VKSTC ngày 9/1/2003 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quản lý chặt chẽ số người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù, phát hiện kịp thời các trường hợp sắp hết hạn tạm giữ, tạm giam để thông báo cho cơ quan tiến hành tố tụng kịp thời giải quyết. Nếu thấy việc tạm giữ, tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật thì ra quyết định trả tự do cho người đã bị tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật, kiên quyết khắc phục tình trạng để quá hạn tạm giữ, tạm giam. Kịp thời phát hiện các vi phạm trong quá trình tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù để kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục. Các trường hợp có dấu hiệu phạm tội phải được xem xét, khởi tố, điều tra theo quy định của pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân các cấp tiếp tục quán triệt tinh thần và nội dung Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 về công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật. Tập trung làm tốt công tác kiểm sát việc lập hồ sơ đối với các vụ án mà Toà án đưa ra xét xử, nhằm giải quyết đúng đắn vụ án. Viện kiểm sát các cấp cử Kiểm sát viên tham gia tất cả các phiên toà xét xử các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.
Các Viện kiểm sát tỉnh, thành phố, Vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự và Vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật trong phạm vi thẩm quyền có trách nhiệm xem xét các báo cáo và đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, nếu thấy có căn cứ kháng nghị thì tiến hành kháng nghị kịp thời, khắc phục tình trạng để kéo dài hoặc hết thời hiệu kháng nghị đối với các bản án đã có hiệu lực pháp luật mà có vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Nâng cao chất lượng kháng nghị của Viện kiểm sát đối với các bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố quản lý chặt chẽ các trường hợp đã kháng nghị của Viện kiểm sát cấp mình và Viện kiểm sát cấp dưới để tổng hợp báo cáo lên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện kiểm sát cấp trên phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới biết về kết quả kháng nghị theo đề nghị của Viện kiểm sát cấp dưới.
Viện kiểm sát các cấp cần tăng cường công tác tổng kết rút kinh nghiệm, bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.
- Trong lĩnh vực thi hành án hình sự:
Tăng cường phối hợp với các ngành Công an, Toà án để quản lý và nắm chắc các trường hợp người bị kết án phạt tù có hiệu lực từ 01/12/2003 chưa thi hành án để tổ chức thi hành theo đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, phối hợp với các ngành hữu quan tổ chức rà soát, phân loại và có biện pháp giải quyết một cách cơ bản các bản án, quyết định về hình sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành, nhất là số có hiệu lực pháp luật từ năm 2003 trở về trước; khắc phục những vướng mắc trong việc thi hành án, đặc biệt là đối với những đối tượng bị phạt tù mà bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng còn ở ngoài xã hội.
Quản lý chặt chẽ những trường hợp được tạm đình chỉ thi hành án và hoãn thi hành án phạt tù, khi thấy không còn điều kiện để tạm đình chỉ hoặc hoãn thi hành án thì yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành ngay. Tăng cường kiểm sát việc thi hành án đối với các trường hợp được hưởng án treo, bị phạt cải tạo không giam giữ và việc thi hành các hình phạt bổ sung, kịp thời phát hiện và kiến nghị khắc phục những vi phạm, đảm bảo việc thi hành án được nghiêm chỉnh, đúng pháp luật. Vụ kiểm sát thi hành án tổng hợp tình hình kiểm sát việc thi hành án thuộc loại này để hướng dẫn các Viện kiểm sát địa phương thực hiện. Tập trung làm tốt việc tổng kết 10 năm công tác kiểm sát thi hành án hình sự, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp khắc phục những tồn tại, yếu kém.
Viện kiểm sát các cấp tham gia đầy đủ việc xét miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt và xoá án tích của Toà án, kịp thời đề nghị đưa ra khỏi danh sách những trường hợp không đủ điều kiện, bảo đảm việc xét miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt và việc xoá án tích đúng quy định của pháp luật.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp và Thủ trưởng các đơn vị: Vụ 1, Vụ 2, Vụ 3, Vụ 4, Vụ 10, các Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trực tiếp theo dõi, quản lý các trường hợp bị kết án tử hình qua từng giai đoạn tố tụng để báo cáo Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cục thống kê tội phạm có trách nhiệm theo dõi, tổng hợp và định kỳ báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao về vấn đề này.
- Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, các loại án và việc khác theo quy định của pháp luật:
Viện kiểm sát các cấp phối hợp với các ngành hữu quan tổ chức rà soát, phân loại và có biện pháp giải quyết một cách cơ bản các bản án, quyết định về dân sự, các loại án và các việc khác theo quy định của pháp luật đã có hiệu lực nhưng chưa được thi hành. Việc phân loại, đưa vào diện các trường hợp không có điều kiện thi hành phải được kiểm sát chặt chẽ, bảo đảm đúng luật định. Có biện pháp giải quyết những vướng mắc trong việc thi hành những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng không thi hành được.
Viện kiểm sát các cấp tăng cường kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc thi hành án, kiểm sát 100% các trường hợp cưỡng chế thi hành án, tăng cường kiểm sát việc thu, chi tiền thi hành án, nhất là các khoản thu cho ngân sách và kiểm sát thi hành án các vụ việc dưới 500.000 đồng tại cấp xã, phường. Qua công tác kiểm sát thi hành án chú ý phát hiện vi phạm trong việc thi hành án để kháng nghị, kiến nghị yêu cầu sửa chữa, khắc phục.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải quản lý chặt chẽ, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của đơn vị mình, bảo đảm việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định của pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân các cấp chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp theo chỉ đạo của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương.
Thực hiện nghiêm túc chế độ tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo; bảo đảm tất cả các trường hợp khiếu nại, tố cáo đã giải quyết đều có kết luận bằng văn bản để trả lời người khiếu nại, tố cáo. Tập trung giải quyết dứt điểm các đơn khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài, bức xúc, đơn do các cơ quan Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Uỷ ban mặt trận Tổ quốc và các cơ quan báo chí chuyển đến. Tăng cường kiểm sát việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp theo quy định của pháp luật.
Vụ khiếu tố có trách nhiệm phối hợp với các ngành hữu quan và các đơn vị Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề xuất xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng Chương XXXV về khiếu nại tố cáo trong Bộ luật tố tụng hình sự mới; theo dõi, quản lý chặt chẽ kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tư pháp trong toàn ngành để định kỳ báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
II- CÔNG TÁC XÂY DỰNG NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN.
Tiếp tục kiện toàn bộ máy làm việc theo quyết định về tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Uỷ ban Thường vụ quốc hội phê chuẩn; trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, phê chuẩn về tổng biên chế và số lượng Kiểm sát viên các cấp; tiếp tục hoàn thành việc quy hoạch cán bộ lãnh đạo trong toàn ngành và thực hiện việc luân chuyển cán bộ theo Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị, điều động, bổ sung biên chế cho các đơn vị trọng điểm, có nhiều việc; kiện toàn tổ chức bộ máy ở một số Viện kiểm sát, nhất là đối với những đơn vị mới được thành lập.
Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố phối hợp với các cơ quan Toà án, Công an, Tư pháp ở địa phương rà soát, xác định các đơn vị cấp huyện đủ điều kiện thực hiện việc tăng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mới để đề xuất các ngành tư pháp ở Trung ương trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án an ninh, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, các Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, Vụ tổ chức, cán bộ, Vụ kế hoạch - tài chính có trách nhiệm phối hợp giúp lãnh đạo Viện xác định những Viện kiểm sát nhân đân cấp huyện có đủ điều kiện thực hiện việc tăng thẩm quyền từ ngày 1/7/2004 theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mới. Việc phối hợp để xác định những đơn vị cấp huyện có đủ điều kiện thực hiện việc tăng thẩm quyền mới phải được tiến hành ngay từ quý 2 năm 2004.
Sau khi có Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về những đơn vị cấp huyện được thực hiện việc tăng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mới, Vụ tổ chức, cán bộ có trách nhiệm phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề xuất với Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao sắp xếp và điều động bổ sung cán bộ cho các Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện được quyết định thực hiện việc tăng thẩm quyền.
Đẩy nhanh tiến độ hoàn chỉnh trình độ cử nhân luật cho đội ngũ Kiểm sát viên, phấn đấu trong thời hạn sớm nhất tất cả Kiểm sát viên trong độ tuổi cần đào tạo đều có trình độ cử nhân luật theo đúng yêu cầu của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân nhưng vẫn phải bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác đã được đề ra. Tiếp tục triển khai việc đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức về chính trị, nghiệp vụ kiểm sát, tin học, ngoại ngữ, quản lý nhà nước, chỉ đạo điều hành... cho đội ngũ cán bộ trong ngành, bảo đảm đáp ứng các tiêu chuẩn của từng chức danh cán bộ theo quy định của pháp luật. Khuyến khích việc bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên có chuyên môn giỏi ở các địa phương, đơn vị. Tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật, bản lĩnh người cán bộ kiểm sát cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên trong ngành. Tăng cường xây dựng các tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh những cán bộ, Kiểm sát viên vi phạm kỷ luật và pháp luật, nhất là vi phạm pháp luật trong việc giải quyết các vụ án, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Hai trường Cao đẳng Kiểm sát (ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) tiếp tục làm nhiệm vụ đào tạo trình độ Cao đẳng kiểm sát đối với số đã tuyển sinh, tổ chức các lớp hoàn chỉnh kiến thức cử nhân luật, các lớp đào tạo nghiệp vụ kiểm sát cho cán bộ trong ngành theo chương trình đã được lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định. Tiếp tục mở các lớp tập huấn và bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, chỉ đạo điều hành chuyên ngành cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý trong ngành, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về công tác đào tạo và bồi dưỡng Kiểm sát viên. Vụ Tổ chức cán bộ có trách nhiệm chủ trì phối hợp với hai trường Cao đẳng Kiểm sát và các đơn vị hữu quan xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai các lớp bồi dưỡng cán bộ trong năm 2004, trình Ban cán sự Đảng, lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, quyết định vào quý 1 năm 2004.
2- Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành:
Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội thông qua tháng 12/2003 đã phân định rõ trách nhiệm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở từng cấp theo từng giai đoạn tố tụng, phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của từng chức danh tố tụng Trong quý 2 năm 2004, Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ phối hợp với các cơ quan tư pháp ở Trung ương biên soạn tài liệu tổ chức tập huấn cho cán bộ, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán, Chấp hành viên trên toàn quốc. Trên cơ sở đó, Viện kiểm sát các cấp phải quán triệt tới toàn thể cán bộ, Kiểm sát viên đơn vị mình nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mới để thực hiện có hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự. Từ ngày 1/7/2004 các Viện kiểm sát thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mới (đối với việc tăng thẩm quyền của Toà án cấp huyện và tương ứng là tăng thẩm quyền của Viện kiểm sát cấp huyện ở từng địa phương sẽ thực hiện theo Nghị quyết riêng của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội).
Sau khi Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương có Chương trình hành động năm 2004, Viện kiểm sát nhan dân tối cao tổ chức quán triệt và đề ra chương trình cụ thể của ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện các công việc theo chỉ đạo của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp.
Các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục rà soát, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Quy chế tổ chức, hoạt động của đơn vị và các Quy chế nghiệp vụ theo chức năng, nhiệm vụ do Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Bộ luật tố tụng hình sự mới quy định, đặc biệt Quy chế thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự; hoàn thành Quy chế về mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố; xây dựng Quy chế về công tác đối ngoại nhằm tăng cường quản lý công tác đối ngoại của ngành Kiểm sát nhân dân. Toàn ngành tiếp tục thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 khoá IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới; thực hiện nghiêm chỉnh Pháp lệnh về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Pháp lệnh chống tham nhũng và Pháp lệnh về cán bộ công chức trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Cùng với việc tuân thủ các quy định của pháp luật, Viện kiểm sát các cấp phải thực hiện nghiêm túc Quy chế về thông tin, báo cáo, quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân. Thực hiện tốt Quy chế kiểm tra, Quy chế phối hợp giữa các đơn vị, đảm bảo chế độ tập trung thống nhất, kỷ luật nghiệp vụ trong ngành. Hoàn thành và triển khai ứng dụng Đề án thống kê hình sự - thống kê tội phạm liên ngành, Đề án tin học hoá quản lý Nhà nước trong ngành Kiểm sát, triển khai xây dựng Trung tâm tích hợp số liệu tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhằm tăng cường hiệu quả của công tác quản lý, phục vụ tốt cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành.
Viện kiểm sát cấp trên cần tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ đối với Viện kiểm sát cấp dưới. Viện kiểm sát cấp dưới có trách nhiệm báo cáo đầy đủ, kịp thời về hoạt động của mình cho Viện kiểm sát cấp trên theo quy định của ngành. Trong năm 2004, Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ trực tiếp kiểm tra đột xuất một số Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, kiểm tra việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại một số phiên toà cấp tỉnh. Đối với những vụ án lớn, phức tạp hoặc những vụ, việc dư luận quan tâm thì Viện kiểm sát cấp trên kịp thời có biện pháp hỗ trợ Viện kiểm sát cấp dưới để phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. Việc thỉnh thị và trả lời thỉnh thị phải thực hiện đúng Quy chế về thông tin, báo cáo, quản lý công tác trong ngành và các Quy chế nghiệp vụ.
Các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục chủ trì phối hợp quản lý, theo dõi các chuyên đề nghiệp vụ theo Chỉ thị số 03/2002/CT-VKSTC ngày 23-1-2002 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cụ thể là: Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự (Vụ 1) quản lý, theo dõi vấn đề đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra, trong đó có vấn đề đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội và vấn đề hình sự hoá các tranh chấp dân sự, kinh tế, đồng thời, theo dõi việc thực hiện Nghị quyết 388 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong toàn ngành, chủ trì cùng Vụ 2, Vụ 3 xây dựng Quy chế thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự; Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án an ninh (Vụ 2) quản lý, theo dõi các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự (Vụ 3) quản lý, theo dõi các trường hợp Viện kiểm sát truy tố mà Toà án tuyên không phạm tội; Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù (Vụ 4) quản lý, theo dõi vấn đề bắt, giam, giữ. Viện kiểm sát các địa phương phải theo dõi, nắm chắc từng trường hợp cụ thể thuộc các chuyên đề để tổng hợp, báo cáo đầy đủ, kịp thời về Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện kiểm sát các cấp phải thường xuyên theo dõi, xử lý các thông tin liên quan đến trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân trong ngành do báo chí đăng tải. Các nội dung đăng tải liên quan đến trách nhiệm của Viện kiểm sát nào thì Viện trưởng Viện kiểm sát đó phải trực tiếp xem xét, trả lời và báo cáo Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong trường hợp nội dung đăng tải liên quan tới trách nhiệm của đơn vị nghiệp vụ Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì Thủ trưởng đơn vị đó có trách nhiệm xem xét trả lời và báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo dõi, tổng hợp thông tin liên quan đến trách nhiệm của ngành Kiểm sát mà báo chí đăng tải, đôn đốc việc trả lời của các đơn vị trong ngành Kiểm sát và định kỳ báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện kiểm sát các cấp cần nâng cao trách nhiệm trong công tác phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Trong quá trình thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát các cấp cần chú ý phát hiện, tổng hợp vi phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp để ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục. Đồng thời, thông qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát các cấp cần phát hiện những thiếu sót, sơ hở trong công tác quản lý nhà nước để kiến nghị các cấp, các ngành, các cơ quan quản lý nhà nước có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục nhằm ngăn ngừa có hiệu quả tội phạm và vi phạm pháp luật xảy ra.
3- Công tác hướng dẫn thi hành pháp luật, nghiên cứu khoa học, xây dựng và tuyên truyền pháp luật:
Viện khoa học kiểm sát có trách nhiệm lập kế hoạch, tổ chức nghiên cứu khoa học trong ngành Kiểm sát nhân dân, triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào thực hiện nhiệm vụ của ngành. Đồng thời, phối hợp với các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức tập huấn nghiệp vụ, hướng dẫn giải quyết những vướng mắc về áp dụng pháp luật trong thực tiễn hoạt động của ngành.
Ngay từ đầu năm 2004, dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện khoa học kiểm sát chủ trì phối hợp với các cơ quan và đơn vị hữu quan biên soạn nội dung tập huấn Bộ luật tố tụng hình sự mới được Quốc hội thông qua để kịp tổ chức tập huấn trong quý 2 năm 2004; tiến hành rà soát các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật trước đây để huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung đối với những văn bản không còn phù hợp; Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ ban hành các Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dung các quy định của pháp luật, nhất là hướng dẫn các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mới và một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa được hướng dẫn và đang có những vướng mắc, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp nói chung, của ngành Kiểm sát nói riêng. Đối với những vướng mắc trong việc áp dụng các văn bản pháp luật liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát cần phải có sự giải thích của Uỷ ban Thường vụ quốc hội thì Viện khoa học kiểm sát phải kịp thời báo cáo lãnh đạo Viện để đề xuất Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, giải thích.
Các đơn vị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm tham gia xây dựng các Luật, Pháp lệnh theo chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội.
Chú trọng công tác hướng dẫn, tuyên truyền, giáo dục pháp luật trên báo chí của ngành. Nâng cao chất lượng của Tạp chí kiểm sát theo hướng tăng cường các bài viết nghiên cứu, trao đổi lý luận khoa học pháp lý và thực tiễn phục vụ công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật mới và thông tin về kết quả các mặt hoạt động của các đơn vị trong ngành. Nâng cao hơn nữa chất lượng báo Bảo vệ pháp luật theo hướng tuyên truyền kịp thời các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong năm 2004, tập trung vào việc tuyên truyền Bộ luật tố tụng hình sự mới; tuyên truyền về hoạt động của ngành Kiểm sát trong công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm; phản ánh kịp thời, chính xác hoạt động của các đơn vị trong toàn ngành; phát hiện, biểu dương những nhân tố mới, điển hình tiên tiến; đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, làm cho tờ báo ngày càng gần gũi với công chúng cả nước.
Tiếp tục tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại với Viện kiểm sát và Viện công tố các nước, thực hiện các dự án đã ký kết với nước ngoài và các tổ chức quốc tế, bảo đảm tính hiệu quả và thiết thực.
Toàn ngành tiếp tục thực hiện Đề án xây dựng trụ sở và cung cấp trang thiết bị, phương tiện làm việc cho Viện kiểm sát nhân dân theo tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã được Chính phủ phê duyệt. Trên cơ sở nguồn kinh phí được cấp trong năm 2004, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phân bổ kinh phí cho các đơn vị trực thuộc và Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố căn cứ vào yêu cầu công tác, tình hình cụ thể của mỗi địa phương. Viện kiểm sát các cấp phải công khai việc phân bổ kinh phí cho các đơn vị cấp dưới, bảo đảm việc chi tiêu, sử dụng kinh phí có hiệu quả, tiết kiệm, hợp lý theo đúng quy định của Luật ngân sách và quy định của ngành. ưu tiên việc phân bổ kinh phí cho các đơn vị mới chia tách, các Viện kiểm sát cấp huyện, bảo đảm yêu cầu của việc tăng thẩm quyền cấp huyện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mới. Viện kiểm sát cấp trên phải thường xuyên kiểm tra việc sử dụng kinh phí của Viện kiểm sát cấp dưới, Viện kiểm sát cấp dưới phải thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo Viện kiểm sát cấp trên về việc quản lý, sử dụng nguồn kinh phí do ngành cấp và nguồn kinh phí do ngân sách địa phương hỗ trợ. Năm 2004 toàn ngành tiến hành tổng kiểm kê tài sản nhằm nắm chắc thực trạng tài sản để có kế hoạch tiếp tục lập Đề án trình cơ quan có thẩm quyền đầu tư trang bị phương tiện làm việc và kinh phí để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Viện kiểm sát nhân dân tối cao sẽ có văn bản riêng chỉ đạo và hướng dẫn về công tác hậu cần của ngành.
Vụ Kế hoạch - Tài chính có trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn và kiểm tra công tác tài chính - kế toán, việc chi tiêu, sử dụng kinh phí được cấp của các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các đơn vị dự toán thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhằm khắc phục các thiếu sót trong việc tổ chức công tác kế toán, hạch toán, quản lý, chi tiêu ngân sách và định kỳ tổng hợp báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Chỉ thị này được quán triệt đến toàn thể cán bộ, công chức trong ngành Kiểm sát nhân dân. Các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao căn cứ vào Chỉ thị này để xây dựng chương trình công tác và hướng dẫn nghiệp vụ cho các Viện kiểm sát địa phương. Viện kiểm sát các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Viện kiểm sát quân sự Trung ương sớm xây dựng kế hoạch công tác, tổ chức Hội nghị triển khai công tác năm 2004. Chương trình, kế hoạch, hướng dẫn công tác năm 2004 của các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của các Viện kiểm sát tỉnh, thành phố gửi về Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chậm nhất vào ngày 20/2/2004.
Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm giúp lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao nắm tình hình và đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị này đạt kết quả tốt./.
| VIỆN TRƯỞNG |
- 1Bộ luật tố tụng hình sự 1988
- 2Bộ Luật Hình sự 1999
- 3Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân 2002
- 4Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
- 5Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003
- 6Nghị quyết 08-NQ/TW năm 2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới do Bộ Chính trị ban hành
- 7Chỉ thị 01/CT-VKSTC năm 2013 về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2013 do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
- 8Chỉ thị 01/CT-VKSTC năm 2015 về công tác của ngành kiểm sát nhân dân do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
Chỉ thị 07/2003/CT-VKSTC-VP về công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2004 do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
- Số hiệu: 07/2003/CT-VKSTC-VP
- Loại văn bản: Chỉ thị
- Ngày ban hành: 30/12/2003
- Nơi ban hành: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Người ký: Hà Mạnh Trí
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: Kiểm tra
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra