- 1Nghị định 67/2005/NĐ-CP Hướng dẫn Pháp lệnh Giám định tư pháp
- 2Luật Nhà ở 2005
- 3Luật trợ giúp pháp lý 2006
- 4Nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa đổi nghị định 68/2002/NĐ-CP Hướng dẫn Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
- 5Chỉ thị 35/2006/CT-TTg thi hành Luật Trợ giúp pháp lý do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 6Luật Công chứng 2006
- 7Nghị định 07/2007/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Trợ giúp pháp lý
- 8Quyết định 30/QĐ-TTg năm 2007 Phê duyệt Đề án Đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 - 2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 9Thông tư liên tịch 04/2005/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương do Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ ban hành
- 10Nghị định 79/2007/NĐ-CP về việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký
- 11Quyết định 1067/1998/QĐ-TTg phê duyệt Dự án xây dựng và quản lý tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 12Nghị định 103/1998/NĐ-CP về việc quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật
- 13Nghị định 62/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp
- 14Luật Đất đai 2003
- 15Nghị định 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản
- 16Nghị quyết số 48-NQ/TW về việc chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 do Bộ Chính trị ban hành
- 17Luật tương trợ tư pháp 2007
- 18Nghị định 02/2008/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Công chứng
- 19Quyết định 09/2008/QĐ-TTg quy định nguyên tắc thiết kế và tiêu chuẩn sử dụng nhà ở công vụ do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 20Quyết định 49/QĐ-BTP năm 2008 về chương trình công tác trọng tâm của ngành Tư pháp năm 2008 do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 21Thông tư liên tịch 19/2008/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản do Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp ban hành
- 22Quyết định 43/2008/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước năm 2008 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 23Thông tư 01/2008/TT-BTP hướng dẫn thực hiện Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch do Bộ Tư pháp ban hành
- 24Quyết định 792/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Quy hoạch mạng lưới Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008 – 2010, định hướng đến năm 2015 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 25Chỉ thị 21/2008/CT-TTg về việc tiếp tục tăng cường và và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 26Nghị định 78/2008/NĐ-CP về việc quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật
- 27Nghị định 77/2008/NĐ-CP về việc tư vấn pháp luật
- 28Nghị định 93/2008/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp
- 29Thông tư 03/2008/TT-BTP hướng dẫn thi hành Nghị định 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký do Bộ Tư pháp ban hành
- 30Chỉ thị 32-CT/TW năm 2003 về tăng cường sự lãnh đạo của đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân do Ban Bí thư ban hành
- 31Quyết định 1254/QĐ-TTg năm 2008 về bổ nhiệm bà Nguyễn Thúy Hiền giữ chức Thứ trưởng Bộ Tư pháp do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 32Quyết định 1256/QĐ-TTg năm 2008 bổ nhiệm ông Nguyễn Đức Chính giữ chức Thứ trưởng Bộ Tư pháp do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 33Quyết định 1934/QĐ-BTP năm 2008 về việc phân công công tác của Bộ trưởng và các Thứ trưởng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 34Thông tư liên tịch 91/2008/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng do Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp ban hành
- 35Thông tư liên tịch 92/2008/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực do Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính ban hành
- 36Thông tư liên tịch 08/2008/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn tổ chức và biên chế của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước do Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ ban hành
- 37Luật thi hành án dân sự 2008
- 38Luật Quốc tịch Việt Nam 2008
- 39Chỉ thị 34/2008/CT-TTg về tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 40Quyết định 1579/QĐ-BTTTT năm 2008 về việc phê duyệt kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2009 – 2010 của Bộ Tư pháp do Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành
BỘ TƯ PHÁP | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 04/BC-BTP | Hà Nội, ngày 09 tháng 01 năm 2009 |
TỔNG KẾT CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2008 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CÔNG TÁC NĂM 2009
(Báo cáo tại Hội nghị triển khai công tác tư pháp toàn quốc năm 2009)
Năm 2008 là năm Chính phủ quyết tâm phấn đấu đạt một số chỉ tiêu cơ bản của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm (2006 - 2010), đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển trước năm 2010. Năm 2008 cũng là năm tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, các hoạt động sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu bị giảm sút, lạm phát tăng cao, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, chúng ta đã giành được nhiều thành tựu quan trọng. Việc kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô đạt được kết quả bước đầu quan trọng; nền kinh tế duy trì được mức tăng trưởng khá (khoảng 6,23%); an sinh xã hội được quan tâm đẩy mạnh và triển khai thực hiện có hiệu quả. Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, thông tin và bảo vệ môi trường được chú trọng. Cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí có những chuyển biến tích cực. Hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm.
Cùng với sự nỗ lực chung của cả nước, Ngành Tư pháp tiếp tục vượt qua khó khăn, đẩy mạnh thực hiện các Nghị quyết của Đảng về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, Chiến lược cải cách tư pháp, triển khai đồng bộ các mặt công tác, tập trung hoàn thành nhiệm vụ theo Chương trình công tác trọng tâm của Ngành năm 2008, cụ thể là: đẩy mạnh công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm thực sự tạo chuyển biến cơ bản trong công tác thi hành án dân sự; tiếp tục lộ trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp; thu hút nhân tài, nâng cao chất lượng đào tạo luật, đào tạo nghề, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực; kiện toàn bộ máy của cơ quan tư pháp các cấp, nhất là tư pháp cấp xã; tăng cường kỷ cương, kỷ luật, đổi mới lề lối làm việc, thông tin hai chiều; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; tăng cường vai trò của báo chí, cổng thông tin điện tử; xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9000-2000 vào hoạt động của Bộ và Ngành; phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương để thực hiện hiệu quả công tác tư pháp.
Bước sang năm 2009, toàn Ngành cần nghiêm túc đánh giá một cách toàn diện, chính xác, khách quan công tác tư pháp năm 2008, nhất là việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, qua đó khẳng định những kết quả đã đạt được, ghi nhận và nhân rộng những cách làm mới, hiệu quả; làm rõ những khó khăn, hạn chế, yếu kém; xác định cụ thể nguyên nhân, rút ra bài học, đồng thời đưa ra các giải pháp khắc phục nhằm thực hiện thành công Kế hoạch công tác của Ngành, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Chính phủ về giải pháp thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2009.
KẾT QUẢ CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2008
a) Công tác xây dựng văn bản, đề án
Năm 2008, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ soạn thảo 42 văn bản, đề án trình Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (trong đó có 07 dự án luật); 63 văn bản, đề án thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ Tư pháp hoặc liên tịch ban hành. Bên cạnh đó, các đơn vị thuộc Bộ, các cơ quan Tư pháp địa phương, các Tổ chức pháp chế Bộ, ngành còn phải thực hiện một số lượng lớn các công việc liên quan đến việc xây dựng văn bản, đề án.
Bộ đã hoàn thành và trình Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ 34 văn bản, đề án (trong đó có 18 văn bản đã được ban hành), đạt 80,95% so với kế hoạch, tăng 12,95% so với năm 2007; riêng việc xây dựng và trình các dự án luật đạt 100% kế hoạch (chi tiết xem Phụ lục số 1). Các đơn vị thuộc Bộ đã hoàn thành và trình 38 văn bản, đề án thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ hoặc liên tịch ban hành (trong đó có 22 văn bản đã được ban hành), đạt 60,31%, tăng 17,76% so với năm 2007.
Quy trình xây dựng các VBQPPL không những tuân thủ quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà còn được đổi mới theo hướng tăng cường tính dân chủ, công khai, minh bạch, nâng cao tính chuyên nghiệp trong tất cả các khâu từ lập dự kiến chương trình đến soạn thảo, thẩm định và ban hành. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong nước và quốc tế, sự phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và địa phương trong việc xây dựng văn bản, đề án được chú trọng thực hiện và có nhiều chuyển biến tích cực.
Nội dung các văn bản, đề án đã thể chế hóa kịp thời đường lối, chính sách, định hướng quan trọng thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; chứa đựng nhiều vấn đề mới, tiến bộ, đặc biệt là tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh trong đầu tư, sản xuất, kinh doanh, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, cải cách hành chính và hội nhập kinh tế quốc tế trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
b) Công tác thẩm định, góp ý văn bản, đề án
Tính đến hết ngày 30/9/2008, Bộ đã tiến hành thẩm định xong 352 văn bản, đề án, 107 điều ước quốc tế (tăng 25 điều ước so với năm 2007); tham gia góp ý 984 văn bản các loại do các Bộ, ngành gửi đến (tăng 372 văn bản so với năm 2007); cấp ý kiến pháp lý cho 69 khoản vay nước ngoài (tăng 42 ý kiến so với năm 2007). Theo thống kê chưa đầy đủ, trong năm 2008, các cơ quan Tư pháp địa phương đã giúp HĐND, UBND các cấp soạn thảo 2.174 văn bản quy phạm pháp luật, thẩm định 30.071 văn bản, góp ý kiến cho 8.422 văn bản.
Tiến độ thẩm định được bảo đảm, chất lượng thẩm định từng bước được nâng cao. Nội dung thẩm định đã chú trọng đánh giá tác động xã hội, sự phù hợp với các cam kết quốc tế, bảo đảm tính khả thi, góp phần nâng cao chất lượng dự thảo văn bản. Trong quá trình thẩm định các điều ước quốc tế đã kịp thời phát hiện, đề xuất sửa đổi, bổ sung và ban hành mới những quy định còn chưa tương thích với các cam kết quốc tế.
Tại nhiều địa phương, Lãnh đạo HĐND, UBND đánh giá cao công tác thẩm định văn bản, đề án, thể hiện sự tin tưởng qua việc chỉ ký ban hành khi đã có ý kiến thẩm định của cơ quan Tư pháp. Điều đó phản ánh sự nỗ lực của toàn Ngành trong việc phấn đấu trở thành "người gác cổng" tin cậy của chính quyền các cấp trong việc ban hành chính sách, pháp luật.
Để góp phần nâng cao chất lượng thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Tư pháp địa phương, trong năm 2008, Bộ đã kết hợp với các Sở Tư pháp: thành phố Hồ Chí Minh, Lào Cai, Đà Nẵng, Hải Phòng tổ chức các hội thảo với sự tham dự của nhiều chuyên gia trong và ngoài Ngành, đại diện chính quyền các địa phương. Kết quả hội thảo đã giúp cho các cơ quan Tư pháp nhận thức rõ hơn về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác thẩm định văn bản cũng như tìm ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả của công tác này trong thời gian tới.
c) Công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL
Toàn Ngành đã kiểm tra được 38.083 văn bản, trong đó phát hiện 8.752 văn bản có sai sót; đã kiến nghị xử lý 4.565 văn bản. Riêng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đã tiến hành kiểm tra 1.968 văn bản theo thẩm quyền (gồm 865 văn bản của cấp Bộ và 1.283 văn bản của địa phương), bước đầu phát hiện 490 văn bản có sai sót về nội dung và hình thức.
Hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản theo chuyên đề, địa bàn, lĩnh vực và các nguồn thông tin được chú trọng và tích cực triển khai thực hiện. Việc ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật gây bức xúc trong dư luận xã hội đã được kịp thời kiến nghị xử lý.
Hoạt động rà soát, hệ thống hóa VBQPPL, đặc biệt là các VBQPPL ban hành trong các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của Ngành tiếp tục được tăng cường; triển khai thực hiện thí điểm tổng rà soát tại một số Bộ, ngành và địa phương như: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước, tỉnh Nghệ An, TP. HCM, chuẩn bị cho việc thực hiện Đề án tổng rà soát hệ thống pháp luật Việt Nam trong năm 2009.
Trong năm qua, Bộ đã hoàn thành báo cáo kết quả rà soát, hệ thống hóa văn bản trong một số lĩnh vực theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (các Báo cáo kết quả rà soát văn bản và cơ chế điều hành về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng Sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; Báo cáo kết quả rà soát văn bản theo Nghị quyết 27/2007/NQ-CP ngày 30/5/2007 của Chính phủ...). Bộ cũng đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tiến hành rà soát pháp luật Việt Nam liên quan đến các cam kết của Việt Nam với WTO. Trên cơ sở các báo cáo rà soát pháp luật của các Bộ, ngành và địa phương, Bộ đã hoàn thiện và trình Chính phủ Báo cáo Kết quả rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết WTO.
Công tác đôn đốc thực hiện, kiểm tra, hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trong năm qua cũng được quan tâm hơn. Bộ đã chủ trì 4 đoàn công tác liên ngành kiểm tra công tác này ở một số địa phương; tổ chức một số lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản ở các bộ, ngành, địa phương.
Bộ đã hoàn thành và trình phê duyệt Đề án về đổi mới và nâng cao hiệu quả trong công tác rà soát, hệ thống hóa VBQPPL; Đề án tăng cường năng lực trong công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL; Đề án tổng rà soát hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL của Ngành trong thời gian tới.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, các mặt công tác nêu trên còn một số hạn chế, yếu kém sau đây:
- Tiến độ xây dựng một số văn bản, đề án còn chậm so với kế hoạch, nhất là các văn bản, đề án thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ hoặc liên tịch ban hành; còn lúng túng trong việc xác định phạm vi và đối tượng điều chỉnh của một số dự án luật; một số nội dung của dự án luật chưa được chuẩn bị, giải trình kỹ, do đó, chưa thực sự thuyết phục được các Đại biểu Quốc hội.
- Hoạt động xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản còn rập khuôn, máy móc; chưa thoát khỏi pháp lý thuần tuý, chưa thực sự “bắt rễ” sâu vào các nhu cầu của đời sống kinh tế - xã hội để điều chỉnh linh hoạt trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh cụ thể, nhất là khi Chính phủ, các địa phương phải thực hiện các giải pháp tình thế, cấp bách để kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế suy giảm kinh tế.
- Chưa tạo được chuyển biến mạnh về chất lượng thẩm định VBQPPL; vẫn còn tình trạng thẩm định, góp ý văn bản chậm so với tiến độ; chất lượng thẩm định một số dự án luật chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu đặt ra (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Dân sự (phần quy định về lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố), Luật Ngân hàng Nhà nước (sửa đổi).
- Sự phối hợp của các đơn vị thuộc Bộ trong việc tham gia một số Ban soạn thảo, Tổ biên tập văn bản, đề án chưa thực sự chặt chẽ. Hoạt động xây dựng văn bản, đề án của Bộ và cơ quan Tư pháp địa phương chưa có sự gắn kết. Cơ quan Tư pháp, cơ quan Thi hành án dân sự địa phương chưa tích cực tham gia ý kiến vào các văn bản, đề án do Bộ soạn thảo, kể cả những văn bản điều chỉnh trực tiếp các hoạt động của Ngành dẫn đến hiện tượng sau khi văn bản được ban hành hoặc trong quá trình triển khai thực hiện thì mới phát hiện những thiếu sót, bất cập.
- Hoạt động kiểm tra liên ngành về công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL chưa hoàn thành kế hoạch đã đặt ra.
- Công tác văn bản ở địa phương chất lượng không đều; cấp huyện và cấp xã còn nhiều hạn chế, yếu kém. Công tác kiểm tra, xử lý văn bản của các Sở Tư pháp chưa hiệu quả.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Một số dự án luật đặt ra nhiều vấn đề mới, phức tạp cả về lý luận và thực tiễn, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nhiều Bộ, ngành; thủ tục chuyển giao hồ sơ, tài liệu thẩm định VBQPPL trong nhiều trường hợp còn chưa được thực hiện theo quy định; nhiều địa phương chưa có cơ chế để cán bộ làm công tác thẩm định văn bản được tham gia quá trình soạn thảo ngay từ đầu; việc dự báo nhu cầu ban hành VBQPPL còn chưa sát thực tế.
- Thành viên các Ban soạn thảo văn bản, đề án không tham dự đầy đủ các cuộc họp Ban soạn thảo thảo dẫn đến tình trạng thiếu thông tin, không thống nhất được ý kiến về những vấn đề phức tạp; năng lực của một số thành viên các Tổ biên tập còn hạn chế; kinh phí hỗ trợ xây dựng pháp luật còn hạn hẹp.
- Đội ngũ cán bộ tham gia xây dựng, góp ý, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản còn mỏng về số lượng; kinh nghiệm thực tiễn, kiến thức về các lĩnh vực chuyên môn ngoài chuyên ngành luật còn hạn chế.
- Một số đơn vị thuộc Bộ chưa chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng văn bản, đề án; việc thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập còn chậm làm ảnh hưởng đến tiến độ soạn thảo; việc điều tra, khảo sát thực tiễn chưa thực sự hiệu quả; sự phối hợp giữa các đơn vị thuộc Bộ, cũng như với các Bộ, ngành có liên quan chưa thật chặt chẽ, chưa khai thác hết tiềm năng trí tuệ tập thể.
- Một số Bộ, ngành, địa phương chưa coi trọng đúng mức công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL; việc chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ đối với tư pháp cấp huyện, cấp xã còn chưa kịp thời.
2. Công tác thi hành án dân sự
Tính từ 01/10/2007 đến 31/8/2008, tổng số việc phải thi hành trong toàn quốc là 622.610 việc, số việc có điều kiện thi hành là 407.458 việc (chiếm 65,44%); tổng số tiền phải thu là 22.235 tỷ 226 triệu 503 nghìn đồng, trong đó số có điều kiện thu là 7.815 tỷ 866 triệu 716 nghìn đồng (chiếm 35,15%). Mặc dù số việc phải thi hành tăng 15.950 việc so với cùng kỳ năm 2007, song nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp, đặc biệt là các giải pháp mang tính đột phá, nên công tác thi hành án dân sự trong toàn quốc đã đạt được những kết quả tích cực, cụ thể như sau:
Kết quả thi hành án xong cả về việc và về tiền cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2007, cụ thể là: đã thi hành xong 289.128 việc/407.458 việc có điều kiện thi hành, đạt 70,96%, tăng 34.821 việc = 7,16% so với cùng kỳ năm 2007; đã thu được 3.568 tỷ 897 triệu 278 nghìn đồng, bằng 45,66% số tiền có điều kiện thu, tăng so với cùng kỳ năm 2007 là 1.153 tỷ 341 triệu 865 nghìn đồng = 16,11 %; giảm 18.872 việc tồn đọng = 9,5% so với cùng kỳ năm 2007. Một số địa phương đạt tỷ lệ thi hành xong khá cao về việc, như: Bắc Cạn 94%, Thái Nguyên 88%, Bến Tre 87%, Hà Giang 87%, Hòa Bình 87%, Tuyên Quang 86%, Lai Châu 86%, Bắc Giang 85%, Thi hành án trong Quân đội 84%, Phú Thọ 85%, Thừa Thiên - Huế 84%, Hải Phòng 82%, Hậu Giang 82%, Đắc Nông 82%, Yên Bái 80%, Điện Biên 79% và về tiền như: Gia Lai 74%, Thừa Thiên - Huế 70%, Hòa Bình 65%, Quảng Nam 63%, Bà Rịa - Vũng Tàu 62%, Thái Nguyên 62%, Cao Bằng 61%, Bắc Giang 59%, Phú Thọ 56% (chi tiết xem Phụ lục 2A, 2B).
Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự được thực hiện quyết liệt, tăng cường đối thoại, chú trọng công tác dân vận, giải quyết dứt điểm hoặc một bước cơ bản nhiều vụ việc khiếu nại phức tạp, tồn đọng kéo dài.
Việc kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan Thi hành án dân sự đạt được kết quả cụ thể, chế độ chính sách đối với cán bộ thi hành án được quan tâm: chỉ đạo hợp nhất các cơ quan THADS Hà Nội mới; bổ sung cán bộ cho các cơ quan Thi hành án, nhất là đối với những nơi thiếu biên chế trong nhiều năm qua; việc điều động, luân chuyển, biệt phái cán bộ thi hành án cho những nơi thiếu biên chế, có số lượng án nhiều được tăng cường ở nhiều địa phương; 62/63 cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh đã thành lập các phòng chuyên môn để thực hiện nhiệm vụ giúp Trưởng Thi hành án dân sự quản lý, chỉ đạo thi hành án hiệu quả hơn. Kỷ cương, kỷ luật, chế độ trách nhiệm trong các cơ quan Thi hành án dân sự tiếp tục được tăng cường.
Công tác hoàn thiện thể chế được chú trọng: Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội thông qua với nhiều nội dung mới, tiến bộ; xây dựng Đề án thí điểm chế định tổ chức Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh; xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về việc tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự; ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác thi hành án.
Các đề án về tăng cường cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động, xây dựng trụ sở, kho vật chứng cho các cơ quan Thi hành án dân sự được đẩy nhanh tiến độ[1].
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác thi hành án dân sự còn một số hạn chế, yếu kém sau đây:
- Số lượng việc thi hành án tồn đọng vẫn còn lớn (333.482 việc với số tiền là 16.503 tỷ 796 triệu 576 nghìn đồng).
- Một số chủ trương lớn của lãnh đạo Bộ như: giao chỉ tiêu thi hành án cho từng địa phương, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi hành án thực hiện chưa hiệu quả.
- Sự phối hợp giữa Cục Thi hành án dân sự với Giám đốc Sở Tư pháp, với cấp uỷ, chính quyền địa phương nhìn chung chưa kịp thời. Cán bộ thi hành án nhìn chung còn thiếu và yếu, nhiều địa phương chưa tuyển dụng hết biên chế; còn nhiều sai sót trong thực hiện nghiệp vụ, hiện tượng nhũng nhiễu, vi phạm pháp luật tiếp tục xảy ra; một bộ phận thiếu kỹ năng thuyết phục, dân vận làm chưa tốt, dẫn đến nhiều vụ việc phải cưỡng chế; kỷ cương, kỷ luật hành chính còn bị buông lỏng ở nhiều đơn vị;
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Một số cơ quan Thi hành án quá tải công việc vì có lượng án quá lớn; số việc thi hành án tồn đọng chuyển dồn từ năm này sang năm khác nhiều mà chưa có cơ chế giải quyết dứt điểm; nhiều vụ việc phải thi hành theo định kỳ hàng tháng, quý kéo dài trong nhiều năm; không ít vụ việc không thể thi hành nhanh do phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án, trong khi đó pháp luật quy định việc bán đấu giá tài sản đã kê biên phải thông báo nhiều lần trên phương tiện thông tin đại chúng; tài sản đã kê biên, tổ chức bán đấu giá nhiều lần, nhưng không có người mua; nhiều trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án, nhưng không tự nguyện thi hành án, thậm chí chống đối quyết liệt việc thi hành án.
- Nhiều địa phương, nhất là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa thiếu nguồn tuyển dụng cán bộ thi hành án; cơ chế luân chuyển, điều động Chấp hành viên cấp tỉnh xuống để làm Trưởng Thi hành án, Phó trưởng Thi hành án cấp huyện còn nhiều bất cập, thủ tục điều động rườm rà, phức tạp; chế độ, chính sách còn bất cập, gây khó khăn trong việc luân chuyển Chấp hành viên từ Thi hành án dân sự cấp tỉnh xuống công tác tại cấp huyện hoặc từ cơ quan Thi hành án này sang cơ quan Thi hành án khác.
- Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ thi hành án còn nhiều bất cập, trong khi thi hành án là loại việc phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức trong tác nghiệp, vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến sự yên tâm, lòng nhiệt tình công tác của cán bộ thi hành án.
- Vẫn còn tình trạng chậm trả lời, hướng dẫn giải quyết những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ cho các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương, chưa kiểm tra, đôn đốc các cơ quan Thi hành án dân sự xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ thi hành án có hành vi sai phạm, kéo dài quá trình thi hành án. Một số Chấp hành viên, cơ quan Thi hành án chưa thực sự tích cực thực hiện nhiệm vụ, còn trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp trên; có trường hợp Chấp hành viên, cán bộ thi hành án chưa nghiên cứu kỹ các văn bản pháp luật về thi hành án, trong tác nghiệp thi hành án còn cẩu thả, tùy tiện, đạo đức công vụ chưa tốt, dẫn đến sai phạm.
- Cơ sở vật chất của cơ quan Thi hành án dân sự còn nghèo nàn, chưa tương xứng với các cơ quan tư pháp ở địa phương; kinh phí chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động; việc xây dựng kho vật chứng thi hành án và một số trụ sở cơ quan Thi hành án còn chậm do khó khăn về bố trí địa điểm, giải phóng mặt bằng; việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động quản lý, chỉ đạo về thi hành án dân sự còn hạn chế.
3. Công tác hành chính tư pháp
Trong năm 2008, tổng số việc chứng thực là 16.942.318; tổng số phí chứng thực thu được là 40.529.892.300 đồng; số cặp đăng ký kết hôn là 502.980; số trường hợp khai sinh là 1.380.645, khai tử là 245.064; số cải chính hộ tịch là 51.309; số Phiếu lý lịch tư pháp đã cấp là 151.499 (chi tiết xem Phụ lục 3B); giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch cho 77 trường hợp (tăng 18 trường hợp so với năm 2007); trở lại quốc tịch Việt Nam cho 29 trường hợp (tăng 16 trường hợp so với năm 2007); thôi quốc tịch Việt Nam cho 6597 trường hợp (giảm 1773 trường hợp so với năm 2007), giải quyết việc xác minh để cấp Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam 1186 trường hợp (tăng 654 trường hợp so với năm 2007).
Thể chế về công tác hành chính tư pháp được tiếp tục hoàn thiện, đặc biệt là việc Quốc hội thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi). Một loạt các văn bản hướng dẫn cũng được ban hành kịp thời như: Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch; Thông tư số 03/2008/TT-BTP ngày 25/8/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 92/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008 hướng dẫn mức thu, chế độ, thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực. Dự án Luật Lý lịch tư pháp cũng đã được trình Quốc hội cho ý kiến, dự kiến thông qua vào kỳ họp tới của Quốc hội.
Các cơ quan tư pháp tiếp tục phối hợp chặt chẽ với cơ quan công an trong việc tra cứu, xác minh lý lịch tư pháp cho đương sự; một số địa phương chủ động thực hiện rút ngắn thời hạn giải quyết việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp, đặc biệt trong khâu lập và cấp phiếu tại Sở Tư pháp.
Việc triển khai thực hiện các quy định về kết hôn có yếu tố nước ngoài theo Nghị định số 69/2006/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày càng đi vào nền nếp; số lượng vụ việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với đàn ông Đài Loan, Hàn Quốc giảm nhiều so với những năm trước đây; nhiều vụ việc kết hôn không lành mạnh đã được ngăn chặn.
Thủ tục xử lý hồ sơ xin con nuôi, cấp giấy phép hoạt động cho các Văn phòng con nuôi nước ngoài được tiếp tục rà soát để cải tiến; các bước chuẩn bị xây dựng Luật nuôi con nuôi, chuẩn bị các thủ tục để tham gia Công ước La Hay đang được tiến hành. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong năm 2008, có khoảng 1.700 trường hợp trẻ em Việt Nam được giải quyết cho làm con nuôi người nước ngoài, trong đó chủ yếu trẻ em được cho làm con nuôi công dân Hoa Kỳ, Italia, Pháp, Ailen, Canada.
Việc cải cách hành chính trong các hoạt động hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp được đẩy mạnh dưới nhiều hình thức như: thực hiện cơ chế “một cửa”, công khai thủ tục trên các trang thông tin điện tử, tiến hành tin học hóa công tác đăng ký và quản lý hộ tịch cùng với việc triển khai các hoạt động của Dự án tin học hóa hộ tịch với EC, trong đó tập trung chủ yếu vào việc xây dựng phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác hành chính tư pháp còn một số hạn chế, yếu kém sau đây:
- Hoạt động chứng thực vẫn còn nhiều lúng túng, chất lượng chứng thực chưa cao, còn nhiều sai sót; cơ chế "một cửa" áp dụng đối với hoạt động chứng thực ở các địa phương đã bộc lộ một số điểm bất hợp lý nhưng cơ quan Tư pháp địa phương chưa chủ động tham mưu cho UBND điều chỉnh cho phù hợp.
- Tình trạng cấp bản sao giấy tờ hộ tịch, cải chính hộ tịch một cách tùy tiện ở một số địa phương vẫn còn.
- Cơ chế phối hợp giữa cơ quan Tư pháp với cơ quan Công an chưa thật hiệu quả nên thời gian cấp Phiếu lý lịch tư pháp còn kéo dài.
- Nhiều địa phương chưa quan tâm đúng mức đến các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, tư vấn, thông tin liên quan đến kết hôn có yếu tố nước ngoài; việc áp dụng biện pháp phỏng vấn trong đăng ký kết hôn có xu hướng bị hành chính hóa một cách xơ cứng, hình thức, có hiện tượng dùng phỏng vấn để gây phiền hà, sách nhiễu; kết quả phỏng vấn còn nhiều hạn chế; tình trạng môi giới kết hôn bất hợp pháp, xâm phạm đến nhân phẩm của phụ nữ vẫn còn nhiều, có những vụ việc nghiêm trọng.
- Công tác quản lý nhà nước về con nuôi nước ngoài còn nhiều yếu kém, buông lỏng, hời hợt, dễ dãi, thiếu chủ động trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch. Còn có hiện tượng gây phiền hà, nhũng nhiễu, thậm chí vi phạm pháp luật trong một số khâu của quá trình giải quyết yêu cầu nhận con nuôi để trục lợị, có nguy cơ làm sai lệch bản chất nhân đạo của việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài (các vụ việc ở Nam Định). Việc để xảy ra các sai sót đáng tiếc trong quan hệ hợp tác con nuôi với Hoa Kỳ đã ảnh hưởng lớn đến quan hệ hợp tác về con nuôi giữa nước ta với một số nước khác.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Trình độ cán bộ tư pháp địa phương, nhất là cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã còn hạn chế, tác phong làm việc còn quan liêu, máy móc, thiếu trách nhiệm; tình trạng bị động về nhân sự làm công tác chứng thực ở các địa phương vẫn chưa được khắc phục, phần lớn các xã, phường, thị trấn hiện vẫn chỉ có 01 cán bộ tư pháp - hộ tịch trong khi khối lượng công việc rất lớn.
- Việc tra cứu, xác minh lý lịch tư pháp ở các Sở Tư pháp còn phụ thuộc vào thông tin ở cơ quan khác nên thiếu sự chủ động.
- Chưa có quy hoạch tổng thể mạng lưới Văn phòng con nuôi nước ngoài; tiến độ xây dựng Đề án tăng cường quản lý các Văn phòng con nuôi nước ngoài nước ngoài tại Việt Nam còn chậm; thể chế về nuôi con nuôi còn chưa được hoàn thiện ảnh hưởng đến hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này.
- Một số Sở Tư pháp còn thụ động trong việc hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ đối với cấp huyện, ỷ lại sự hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ; công tác thanh tra, kiểm tra hộ tịch ít được quan tâm nên tình trạng cấp huyện, cấp xã làm sai nhưng không kịp thời xử lý.
- Việc hướng dẫn, trả lời đề nghị trả lời của địa phương, nhất là các vướng mắc về thể chế, nhiều trường hợp còn chậm.
Triển khai thực hiện Đề án thành lập Tổ chức luật sư toàn quốc, Bộ đã tích cực phối hợp với Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất trong việc thành lập Hội đồng lâm thời luật sư toàn quốc và chuẩn bị tổ chức Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất. Bộ và các Sở Tư pháp đã chủ động phối hợp, tham mưu cho Tỉnh ủy, Thành ủy, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các Đoàn luật sư tổ chức thành công đại hội luật sư[2]; công tác kiểm tra, thanh tra về tổ chức, hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ luật sư tiếp tục được chú trọng. Trong năm 2008, Bộ đã cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư cho 1.015 người, nâng tổng số luật sư cả nước lên 5.310 người. Đề án đào tạo chuyên gia pháp luật, luật sư phục vụ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2008 - 2010 đang được khẩn trương triển khai thực hiện.
Hoạt động tư vấn pháp luật của các tổ chức đoàn thể tiếp tục được củng cố và phát triển theo định hướng xã hội hóa. Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2008/NĐ-CP về tư vấn pháp luật, trong đó có nhiều nội dung mới, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận lợi để phát triển mạng lưới tổ chức tư vấn pháp luật đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Bộ đang phối hợp với các tổ chức đoàn thể cấp Trung ương khẩn trương xây dựng Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định này.
Các tổ chức giám định tư pháp tiếp tục được củng cố, kiện toàn theo quy định của Pháp lệnh Giám định tư pháp và Nghị định số 67/2005/NĐ-CP ; Bộ đã chủ trì xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ Quyết định về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thu hút các chuyên gia giỏi tham gia hoạt động giám định tư pháp; phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng và đề nghị Bộ Tài chính ban hành quy định về phí giám định trong lĩnh vực pháp y, kỹ thuật hình sự, pháp y tâm thần. Đội ngũ giám định viên tư pháp từng bước được bổ sung, nâng cao kiến thức pháp luật và chuyên môn, nghiệp vụ. Trong năm 2008, các Sở Tư pháp đã tham mưu cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh bổ nhiệm giám định viên và đề nghị Bộ cấp Thẻ Giám định viên tư pháp cho 179 người, nâng tổng số giám định viên lên 2.357 người. Bộ tăng cường việc hướng dẫn các Bộ, ngành và địa phương tiến hành tổng kết 04 năm thi hành Pháp lệnh Giám định tư pháp để phục vụ cho việc xây dựng Luật Giám định tư pháp.
Bộ đã tích cực phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan giải quyết những vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bán đấu giá tài sản; chủ động đôn đốc các địa phương thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản. Qua đó, hoạt động bán đấu giá tài sản ở nhiều địa phương đang từng bước đi vào ổn định và phát triển; bước đầu tạo được sự tin cậy của chính quyền địa phương; nhiều địa phương đã chuyển việc đấu giá quyền sử dụng đất cho các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản của Sở Tư pháp. Số lệ phí thu được qua bán đấu giá tài sản năm 2008 tăng 15.737.800.597 đồng so với năm 2007 (chi tiết xem phụ lục số 3B).
Thể chế về hoạt động công chứng được tiếp tục hoàn thiện. Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng. Bộ đã phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 91/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008 hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng. Tính đến tháng 12 năm 2008, trong cả nước có 476 công chứng viên, trong đó riêng năm 2008 bổ nhiệm mới 91 công chứng viên. Các Phòng công chứng tiếp tục được kiện toàn tổ chức và hoạt động; hoạt động của các Văn phòng công chứng bước đầu mang lại những kết quả tích cực. Theo số liệu thống kê của 60 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong năm 2008, tổng số việc công chứng là 368.144, tổng số tiền thu được là 70.174.528.587 đồng (chi tiết xem Phụ lục 3B).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác bổ trợ tư pháp còn một số hạn chế, yếu kém sau đây:
- Đội ngũ luật sư, mạng lưới tổ chức luật sư ở nhiều địa phương còn rất mỏng; đến nay vẫn còn 2 địa phương chưa thành lập được Đoàn Luật sư (Lai Châu, Điện Biên); chất lượng hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu xã hội; Sở Tư pháp một số địa phương còn lúng túng trong việc thực hiện nhiệm vụ giúp UBND quản lý nhà nước đối với luật sư, hành nghề luật sư.
- Công tác giám định tư pháp còn gặp nhiều khó khăn về kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật; đội ngũ giám định viên tư pháp còn yếu về trình độ chuyên môn, chưa đáp ứng tốt yêu cầu công việc; việc triển khai chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp, thu hút các cơ quan, tổ chức chuyên môn, các chuyên gia giỏi trong và ngoài khu vực nhà nước tham gia vào hoạt động giám định còn nhiều hạn chế.
- Việc xã hội hóa hoạt động công chứng mới được triển khai còn nhiều bất cập, có biểu hiện công chứng không đúng quy định; việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên chưa được thực hiện; sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa Phòng công chứng và Văn phòng công chứng chưa hiệu quả; quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng ở nhiều địa phương còn lúng túng; chưa có giải pháp hữu hiệu để quản lý chất lượng bản dịch, chi phí dịch thuật; việc tham mưu cho chính quyền địa phương phân định ranh giới giữa hoạt động công chứng và công tác chứng thực còn lúng túng và chậm thực hiện.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Chưa có Chiến lược phát triển các hoạt động bổ trợ tư pháp, đặc biệt là Chiến lược phát triển nghề luật sư, Đề án quy hoạch tổng thể phát triển nghề công chứng ở Việt Nam, Chiến lược phát triển tổ chức, hoạt động giám định tư pháp. Việc thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động bổ trợ tư pháp còn chưa thực sự chủ động, chưa theo chương trình, kế hoạch phù hợp với từng lĩnh vực, địa bàn trong các giai đoạn khác nhau. Thể chế pháp luật về các hoạt động bổ trợ tư pháp chưa được hoàn thiện; một số lĩnh vực chưa xác định rõ mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, chức năng quản lý nhà nước.
- Liên đoàn luật sư Việt Nam chậm được thành lập đã gây khó khăn cho việc tăng cường vai trò tự quản thống nhất của hệ thống tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư từ Trung ương đến địa phương, làm giảm hiệu quả của nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của các tổ chức luật sư.
- Các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động công chứng, chứng thực các hợp đồng giao dịch (Luật Đất đai, Luật Nhà ở...) còn nhiều bất cập, chưa phân định rõ phạm vi, thẩm quyền công chứng và chứng thực gây khó khăn cho hoạt động cho các Phòng Công chứng hoạt động theo cơ chế sự nghiệp có thu.
- Nhiều Bộ chủ quản, UBND, Sở chuyên môn chưa thực sự quan tâm, tạo điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động, cán bộ cho tổ chức, hoạt động giám định tư pháp; chưa kịp thời ban hành các quy định về quy chuẩn chuyên môn, phí giám định, chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp; chưa phối hợp tích cực với ngành Tư pháp trong việc quản lý công tác giám định tư pháp.
a) Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL)
Với tính chất ổn định của hoạt động PBGDPL, tuy không nằm trong số nhiệm vụ trọng tâm năm 2008, nhưng công tác công tác PBGDPL đã tiếp tục thu được những kết quả tốt, sự chỉ đạo, hướng dẫn sát thực hơn, hoạt động PBGDPL dần chuyển theo hướng tăng tính chuyên nghiệp.
Toàn Ngành đã hoàn thành việc tổng kết Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ từ năm 2003 đến năm 2007; tổng kết 10 năm Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở và Quyết định 1067/QĐ-TTg ngày 25/11/1998 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và quản lý tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn. Bộ hoàn thành việc tham mưu cho Chính phủ ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012 và đang xây dựng trình Chính phủ Đề án củng cố và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công tác PBGDPL giai đoạn 2008 - 2012.
Tiếp tục triển khai có hiệu quả Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010 (Chương trình 212 đã sơ kết giai đoạn 1 thực hiện Đề án 4 do Bộ Tư pháp chủ trì).
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật được triển khai đồng bộ, gắn việc tổ chức thực hiện pháp luật với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật ngày càng đi vào chiều sâu về nội dung, đa dạng về hình thức. Xuất hiện nhiều cách làm hay đang được tổng kết để nhân rộng như: việc tổ chức "Phiên chợ pháp luật" ở Hà Giang, Lào Cai; ”Ngăn sách pháp luật” ở Bắc Kạn; "Giỏ sách pháp luật" ở Bình Dương; "Tổ hòa giải 5 tốt” ở Hà Nội; Đề án “Đem luật về làng” ở huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng; “Ngày pháp luật” ở Hà Tây; Chương trình “Tòa tuyên án” phát trên các kênh VTV6 và VTV3 Đài Truyền hình Việt Nam do VTV6 phối hợp với Học viện Tư pháp thực hiện...
Công tác hòa giải ở cơ sở được các Sở Tư pháp và chính quyền cơ sở quan tâm tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải, tạo điều kiện cho hòa giải viên tại cơ sở hòa giải đúng pháp luật, giữ gìn tình làng nghĩa xóm. Kết quả hòa giải thành ở các địa phương đạt tỷ lệ khá (50 địa phương đạt tỷ lệ từ 70 đến trên 80%; đặc biệt đã có một số địa phương đạt xấp xỉ và trên 90% như Bình Dương, Hòa Bình, Lào Cai, Phú Thọ, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế).
Hoạt động hợp tác quốc tế về PBGDPL đã có bước chuyển biến đáng kể, ngày càng có hiệu quả và thiết thực.
b) Công tác trợ giúp pháp lý (TGPL)
Hệ thống pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý tiếp tục được hoàn thiện: Bộ đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về thành lập Quỹ Trợ giúp pháp lý, Quyết định phê duyệt Đề án quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL và Chi nhánh của Trung tâm; phối hợp các Bộ liên quan ban hành 03 Thông tư liên tịch, ban hành theo thẩm quyền 02 Thông tư và 7 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về công tác trợ giúp pháp lý[3].
Bộ cũng thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ và chuyên môn, nghiệp vụ TGPL. Đến nay đã có 58/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phê duyệt Đề án kiện toàn tổ chức, bộ máy, biên chế của Trung tâm. Các mô hình TGPL tại cơ sở được mở rộng, đến nay có 108 Chi nhánh, 151 Tổ cộng tác viên ở cấp huyện và 2.213 Câu lạc bộ TGPL ở cấp xã. Đội ngũ cán bộ, cộng tác viên TGPL được tăng cường, trong toàn quốc hiện có 515 cán bộ trợ giúp pháp lý, trong đó có 162 Trợ giúp viên pháp lý, 8.489 cộng tác viên; tổ chức thành công hội nghị tập huấn toàn quốc về TGPL; 28 hội thảo, toạ đàm về các vấn đề chuyên sâu; bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL cấp chứng chỉ khoá III cho 78 người là nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý.
Bộ đã thành lập Hội đồng phối hợp liên ngành về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng ở Trung ương; 58/63 tỉnh, thành phố đã thành lập Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng ở địa phương. Công tác trợ giúp pháp lý ở nhiều địa phương đã được cấp uỷ, chính quyền quan tâm và chỉ đạo kịp thời hơn. Công tác phối hợp giữa Bộ Tư pháp với các cơ quan có liên quan trong lĩnh vực TGPL được tăng cường và đạt kết quả cao.
Phạm vi hoạt động TGPL ngày càng mở rộng, hoạt động TGPL lưu động đến các địa bàn vùng sâu, vùng xa tiếp tục được đẩy mạnh, mang lại hiệu quả thiết thực, đi vào chiều sâu hơn, đáp ứng nhu cầu TGPL đa dạng của các đối tượng, góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân. Đến tháng 10/2008 các Trung tâm đã thực hiện trợ giúp được 82.998 vụ việc, trong đó có 76.950 vụ tư vấn, 517 vụ đại diện, 4.997 vụ bào chữa, 334 vụ kiến nghị, 230 vụ hoà giải. Qua đó đã TGPL cho 86.289 đối tượng (22.896 người nghèo, 11.958 người có công với cách mạng, 18.629 người dân tộc, 4.077 trẻ em, 28.729 đối tượng khác). Nét mới trong việc thực hiện TGPL năm qua là chất lượng vụ việc TGPL ngày càng được nâng cao, đáp ứng được yêu cầu TGPL của đối tượng.
Trong năm 2008, Lãnh đạo Bộ đã kịp thời và kiên quyết chỉ đạo dứt điểm việc kiện toàn tổ chức, cán bộ, tăng cường năng lực cho 2 đơn vị Báo Pháp luật Việt Nam và Nhà xuất bản Tư pháp; đồng thời chỉ đạo xây dựng các Đề án đổi mới tổ chức, hoạt động của 2 đơn vị này. Đề án đổi mới tổ chức, hoạt động của Báo Pháp luật Việt Nam, Đề án Báo Pháp luật điện tử đã được phê duyệt và triển khai thực hiện, nhờ đó hoạt động của Báo đã có nhiều khởi sắc. Hoạt động của Nhà xuất bản cũng đã từng bước đi vào ổn định.
Các chuyên mục, chuyên trang của Báo Pháp luật Việt Nam, các chuyên đề của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đã đăng tải thường xuyên thông tin về hoạt động của Ngành; các tin bài, ấn phẩm bám sát chương trình hành động của Bộ Tư pháp, đảm bảo chất lượng về nội dung và hình thức, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị mà Ngành được giao. Báo Pháp luật Việt Nam đã phát triển thêm một số ấn phẩm mới phù hợp với xu hướng phát triển của báo chí, truyền thông hiện đại, góp phần đa dạng hóa hình thức tuyên truyền pháp luật (xuất bản ấn phẩm Doanh nhân và Pháp luật, Báo Pháp luật Việt Nam hoa văn phát hành tại TP. HCM và các tỉnh phía Nam...). Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đã bám sát chương trình xây dựng pháp luật của Ngành, kịp thời xuất bản nhiều số chuyên đề về các dự án Luật Tương trợ tư pháp, Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi), Luật Thi hành án dân sự, Luật Bồi thường nhà nước, góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng các dự án luật này.
d) Ứng dụng công nghệ thông tin
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực hoạt động được chủ động đẩy mạnh; kịp thời tổ chức triển khai thực hiện Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg ngày 24/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước năm 2008; trình và đã được phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Bộ Tư pháp giai đoạn 2009-2010 (Quyết định số 1579/QĐ-BTTTT ngày 24/10/2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông).
Cung cấp kịp thời và cơ bản đầy đủ các thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp lên Cổng thông tin điện tử của Bộ; tổ chức đào tạo và triển khai phần mềm “Quản lý văn bản và hồ sơ công việc” cho bộ phận văn thư, chuyên viên và lãnh đạo của 18 đơn vị thuộc Bộ.
Bộ và nhiều Sở Tư pháp thực hiện hướng dẫn thủ tục hành chính, công khai các mẫu, biểu liên quan trên website của Ngành và của địa phương; hoàn thành việc triển khai hệ thống thư điện tử cho cơ quan THADS địa phương giai đoạn 1.
Bên cạnh đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, báo chí, xuất bản, ứng dụng công nghệ thông tin còn một số hạn chế, bất cập sau đây:
- Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở một số nơi chưa được coi trọng; các biện pháp và hình thức phổ biến, tuyên truyền mới (điều tra thăm dò dư luận xã hội, ký cam kết không vi phạm pháp luật, Ngày pháp luật...) chưa được tổng kết, đánh giá cụ thể để có hướng nhân rộng; việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức bộc lộ nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao; hoạt động của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở một số địa phương còn mang tính hình thức và thụ động.
- Một số địa phương chưa được UBND tỉnh phê duyệt Đề án kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế của Trung tâm TGPL (5/63 Trung tâm), chưa thành lập Hội đồng phối hợp về TGPL trong hoạt động tố tụng (15/63 Trung tâm); đội ngũ cán bộ TGPL ở một số địa phương chưa được củng cố, kiện toàn, biên chế ít, chưa tương xứng với yêu cầu TGPL (Bắc Kạn, Hà Nam...); chất lượng vụ việc TGPL ở một số Trung tâm còn chưa cao; việc thành lập Câu lạc bộ TGPL thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo và Chương trình 135 giai đoạn II ở một số địa phương còn chậm.
- Còn hiện tượng chấp hành chưa nghiêm định hướng thông tin của Đảng và Nhà nước trong công tác báo chí, sai sót về nghiệp vụ; hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp gặp nhiều khó khăn; đọng vốn, đọng sách, công nợ lớn chưa được thanh toán làm cho hoạt động của Nhà xuất bản lúng túng, kém hiệu quả.
- Chưa khai thác hiệu quả tiện ích của công nghệ thông tin; việc sử dụng văn bản, giấy tờ hành chính, in ấn, sao chụp và gửi văn bản, tài liệu không cần thiết vẫn còn; hệ thống mạng nội bộ, thư điện tử, công cụ tìm kiếm, khai thác thông tin được sử dụng chưa thực sự hiệu quả. Việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý của Ngành chưa thực sự gắn kết với các yêu cầu cải cách hành chính, nhiều Sở Tư pháp chưa chú trọng nâng cao trình độ tin học cho cán bộ, công chức; việc thực hiện chuẩn hóa thông tin, các quy trình nghiệp vụ, các biểu mẫu còn chậm.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền một số địa phương trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa sát sao; còn thiếu linh hoạt trong lựa chọn hình thức, biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với trình độ của người được tuyên truyền và đặc thù của địa bàn; công tác sơ kết, tổng kết còn sơ sài, thiếu thông tin hai chiều dẫn tới các giải pháp, biện pháp khắc phục chưa sát thực tế; kinh phí dành cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL, hòa giải ở cơ sở còn hạn chế về trình độ chuyên độ môn, chất lượng đội ngũ báo cáo viên chưa đồng đều, chưa có biện pháp khuyến khích thỏa đáng để có thể huy động được những người có năng lực tham gia công tác PBGDPL.
- Một số địa phương chưa quan tâm đầu tư nguồn lực (biên chế, cơ sở vật chất và kinh phí) cho công tác TGPL; công tác quản lý chất lượng vụ việc ở một số Trung tâm TGPL còn chưa chặt chẽ; việc lựa chọn nguồn cán bộ có đủ điều kiện được đào tạo, bồi dưỡng cấp Chứng chỉ để bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý còn chậm so với yêu cầu đặt ra; một số Trợ giúp viên pháp lý còn chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tham gia tố tụng;
- Việc triển khai thực hiện chủ trương về ứng dụng công nghệ thông tin của Bộ, Ngành chưa thực sự quyết liệt, bài bản; nhiều cán bộ, công chức chưa chủ động, tích cực trong tiếp cận công nghệ thông tin; hạ tầng kỹ thuật và cơ sở vật chất cho ứng dụng công nghệ thông tin ở nhiều địa phương còn hạn chế; chưa có cơ chế cung cấp, trao đổi, thu thập thông tin giữa các cơ quan, đơn vị trong Ngành; tâm lý ngại ứng dụng công nghệ thông tin vẫn còn ở một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức của Bộ...
6. Công tác xây dựng Ngành, đào tạo và nghiên cứu khoa học
Công tác tổ chức, cán bộ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Ngành trong năm 2008 - “Năm tổ chức cán bộ”. Toàn Ngành đã tập trung thực hiện nhiệm vụ và đạt được một số kết quả nổi bật.
Thể chế về bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, Ngành được hoàn thiện một bước cơ bản: Bộ đã xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp (thay thế Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003), trong đó có nhiều quy định mới về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ như: bổ sung chức năng quản lý nhà nước về thi hành pháp luật; các nhiệm vụ mới trong công tác xây dựng pháp luật, hướng dẫn nghiệp vụ công tác pháp chế Bộ, ngành, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tương trợ tư pháp, đấu giá tài sản, quản lý hoạt động nuôi con nuôi; thành lập mới, điều chỉnh chức năng, tên gọi một số đơn vị thuộc Bộ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mới của Bộ, Ngành... Để triển khai thực hiện tốt Nghị định này, Bộ đã ban hành Kế hoạch thực hiện (số 2781/KH-BTP ngày 05/9/2008); kịp thời ban hành các Quyết định về tổ chức và hoạt động của các đơn vị mới thuộc Bộ; tiến hành sửa đổi, bổ sung Quy chế làm việc của Bộ; xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cục THADS, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Tư pháp.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định số 1256/QĐ-TTg , 1254/QĐ-TTg ngày 12/9/2008 bổ nhiệm thêm 02 Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Để triển khai kịp thời việc thực nhiệm vụ của Lãnh đạo Bộ sau khi được kiện toàn, Bộ trưởng đã ký ban hành Quyết định số 1934/QĐ-BTP ngày 09/10/2008 về việc phân công công tác của Bộ trưởng và các Thứ trưởng. Nội dung Quyết định số 1934/QĐ-BTP thể hiện sự phân công công tác trong tập thể Lãnh đạo Bộ được căn cứ vào các khối công việc lớn của Bộ, Ngành; đảm bảo tính khoa học, sự liên kết giữa các lĩnh vực công tác, cân đối về khối lượng công việc của từng đồng chí Lãnh đạo Bộ; đảm bảo quản lý đồng bộ từ công việc tới đơn vị, con người; gắn kết giữa xây dựng pháp luật với thực thi pháp luật; thống nhất từ Trung ương tới địa phương.
Bộ đã hoàn thành việc xây dựng quy hoạch Lãnh đạo Bộ, lãnh đạo cấp Vụ và đã được Ban Bí thư phê duyệt; công tác quy hoạch cán bộ đã hướng mạnh vào đội ngũ công chức trẻ, công chức nữ; việc tạo môi trường làm việc dân chủ bình đẳng, cạnh tranh để công chức phát huy sở trường trong công tác được chú trọng; sắp xếp được một bước cán bộ chủ chốt một số đơn vị.
Thực hiện việc thông báo rộng rãi để tuyển dụng các sinh viên giỏi vào công tác ở cơ quan Bộ, bổ sung đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu công việc; đã ban hành Danh mục các vị trí công tác định kỳ chuyển đổi; tiếp tục hoàn chỉnh Đề án cơ cấu ngạch cán bộ, công chức, Quy chế phân cấp và Kế hoạch luân chuyển cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ.
Sự phối hợp, trao đổi trong thực hiện công việc giữa Ban Cán sự, Lãnh đạo Bộ với các Bộ, ngành, các cấp ủy, chính quyền địa phương được tăng cường, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức về vị trí, vai trò của công tác tư pháp, giúp cho việc triển khai công việc của các đơn vị thuộc Bộ, cơ quan tư pháp địa phương được nhanh chóng, thuận lợi.
Hệ thống tổ chức các cơ quan Tư pháp, Thi hành án dân sự từ trung ương đến địa phương tiếp tục được kiện toàn, củng cố; nhiều Sở Tư pháp làm tốt công tác tham mưu cho chính quyền địa phương trong việc tăng biên chế cho đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã và huyện. Bộ đã phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng và triển khai thực hiện Kế hoạch kiểm tra công tác tư pháp cấp xã ở tất cả các tỉnh, thành phố, qua đó đánh giá toàn diện về năng lực của đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã và chất lượng thực hiện nhiệm vụ công tác tư pháp ở cơ sở, tìm giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp cấp xã đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Hiện Bộ đang tích cực phối hợp với Bộ Nội vụ để ban hành Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV ngày 05/5/2005 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của các cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương.
Công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ cán bộ, công chức của Ngành tiếp tục được quan tâm, nhất là với đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện và xã. Bộ đã hoàn thành việc xây dựng "Bộ chương trình khung, tài liệu tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp huyện"; hỗ trợ một số địa phương mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cấp xã; in ấn và cấp phát tài liệu bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho cán bộ tư pháp, pháp chế các Bộ, ngành; triển khai các hoạt động của Dự án tăng cường năng lực đăng ký khai sinh trẻ em vùng miền núi tại một số địa phương (Lai Châu, Lạng Sơn); các địa phương cũng đã quan tâm triển khai kế hoạch mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về hộ tịch cho cán bộ tư pháp xã, phường; Các Sở Tư pháp cũng rất quan tâm tới việc cử cán bộ đi học (các lớp cao cấp chính trị hoặc đào tạo sau đại học), tạo điều kiện để cán bộ được cập nhật kiến thức nhằm nâng cao trình độ về chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, phục vụ công tác tốt hơn.
Tuy nhiên, công tác xây dựng ngành trong năm qua vẫn còn những hạn chế, yếu kém sau đây:
- Số lượng và chất lượng đội ngũ công chức trong ngành Tư pháp nhìn chung chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ; đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện và xã một số nơi quá thiếu, một bộ phận chưa qua đào tạo luật, chất lượng hoạt động chưa bảo đảm, dẫn đến tình trạng quá tải công việc, nhất là trong tình hình thực hiện phân cấp mạnh cho cơ sở trong một số lĩnh vực công tác như hiện nay.
- Chủ trương luân chuyển, điều chuyển cán bộ, tăng cường cán bộ trẻ đi cơ sở chưa được thực hiện thường xuyên, hiệu quả chưa cao; công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ trong Ngành tuy đã được tăng cường nhưng vẫn chưa có quy hoạch, kế hoạch mang tính chiến lược lâu dài; việc bồi dưỡng, cập nhật kiến thức bổ trợ cho cán bộ chưa được thực hiện thường xuyên.
- Nguồn tuyển dụng cán bộ vào Ngành Tư pháp chưa đa dạng về chuyên ngành đào tạo, trình độ đào tạo; hiện tượng cán bộ xin ra khỏi Ngành có chiều hướng gia tăng.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Chế độ, chính sách cán bộ của Ngành chưa đáp ứng tốt yêu cầu thu hút người có năng lực; đời sống vật chất của cán bộ, công chức, viên chức trong Ngành còn nhiều khó khăn.
- Nhiều địa phương chưa quan tâm đến việc tăng biên chế cho ngành Tư pháp, nhất là tư pháp cấp huyện và cấp xã; nguồn tuyển dụng cán bộ vào cơ quan Tư pháp còn thiếu, nhất là các vùng đồng bào dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
- Công tác cán bộ trong hệ thống cơ quan THADS còn khép kín, sự phối hợp giữa Cục THADS, Vụ Tổ chức cán bộ và các đơn vị có liên quan về công tác này chưa thật chặt chẽ.
- Việc tuyên truyền về ý nghĩa, vai trò của công tác thi đua, khen thưởng chưa sâu rộng; việc lựa chọn, giới thiệu các mô hình điểm, cách làm hay và các tấm gương điển hình về thi đua trong Ngành còn chưa được quan tâm đúng mức; tiến độ xây dựng các bảng chấm điểm thi đua còn chậm.
b) Công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học
Công tác đào tạo cán bộ pháp luật năm 2008 được tập trung vào việc tăng cường năng lực đào tạo cho các cơ sở đào tạo thuộc Bộ, tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo luật, đào tạo nghề, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Bộ đã hoàn thành việc xây dựng và trình Ban Bí thư phê duyệt Đề án đưa pháp luật các nước ASEAN vào chương trình giáo dục của các cơ sở đào tạo luật. Trường Đại học Luật Hà Nội tổ chức thực hiện tốt các hoạt động đào tạo các trình độ trung cấp, cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ luật theo chỉ tiêu, chương trình và kế hoạch đã được duyệt. Hiện nay, Trường có gần 18.000 học viên, trong đó có 6.000 sinh viên đại học hệ chính quy; gần 8.000 sinh viên đại học hệ vừa học vừa làm, 2.000 sinh viên hệ đại học văn bằng hai; 320 học viên cao học; 42 nghiên cứu sinh tiến sĩ luật học và gần 2.000 học sinh trung cấp luật. Năm 2008, Trường đã tổ chức tốt nghiệp cho 2.809 cử nhân luật ở các hệ đào tạo; 56 thạc sỹ luật và 10 tiến sỹ luật. Trường đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên đạt chuẩn và đang triển khai xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng giáo viên; tiếp tục phát triển và hoàn thiện các chương trình đào tạo; đổi mới mạnh mẽ phương pháp đào tạo; nâng cấp hệ thống thông tin thư viện, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập; mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo. Công tác kiểm định và bảo đảm chất lượng đào tạo đang được triển khai và bước đầu có kết quả tốt. Trường đã hoàn thành Bản tự đánh giá toàn diện các mặt hoạt động; triển khai áp dụng ISO 9001 - 2000 với kết quả tốt. Việc triển khai áp dụng đào tạo theo tín chỉ đối với 19 môn học, năm học 2008 - 2009, đã có bước đầu có tác dụng tích cực, tạo ra không khí mới trong giảng dạy và học tập. Đề án xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội trở thành Trường trọng điểm về đào tạo cán bộ pháp luật cơ bản đã được hoàn thành để trình Chính phủ trong thời gian tới.
Bộ đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ Đề án xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo các chức danh tư pháp. Học viện Tư pháp tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử (454 học viên), nghiệp vụ luật sư (1412 học viên), nghiệp vụ thi hành án dân sự (410 học viên); nghiệp vụ công chứng (246 học viên); tổ chức nhiều hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đào tạo các chức danh tư pháp như: hội nghị giảng viên nhằm thống nhất chương trình đào tạo và ứng dụng phương pháp giảng dạy mới (phương pháp tương tác, lấy người học làm trung tâm, diễn án, làm việc nhóm...); tiếp tục biên soạn, đổi mới chương trình, giáo trình, tài liệu phục vụ nghiên cứu, giảng dạy; chương trình "Tòa tuyên án" tạo được sự quan tâm trong dư luận xã hội.
Công tác nghiên cứu khoa học tiếp tục được triển khai sát với yêu cầu, mục đích, nhiệm vụ trọng tâm của Ngành, nổi bật là kết quả góp ý kiến của Hội đồng khoa học Bộ vào các Dự thảo luật mà Bộ đã và sẽ trình Chính phủ trong thời gian tới; triển khai thực hiện Đề tài "Nghiên cứu Chiến lược xây dựng và phát triển ngành Tư pháp trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước". Nhiều hội thảo khoa học, tọa đàm đã được tổ chức ở Bộ và một số Sở Tư pháp, góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định chính sách phát triển Ngành và nâng cao chất lượng các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của Ngành.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học vẫn còn một số hạn chế, bất cập sau đây:
- Tiến độ triển khai xây dựng Đề án xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ pháp luật, Đề án xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo các chức danh tư pháp còn chậm.
- Năng lực đào tạo còn hạn chế so với nhu cầu; chất lượng đào tạo chưa có chuyển biến rõ rệt; cử nhân luật vẫn còn yếu về kỹ năng thực hành, kiến thức bổ trợ và ngoại ngữ, chưa đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cải cách pháp luật, cải cách tư pháp và mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý có mặt còn hạn chế; một số vấn đề phát sinh từ thực tiễn hoạt động tư pháp, đặc biệt ở các địa phương chưa được kịp thời chuyển hóa thành các nhiệm vụ nghiên cứu; việc triển khai thực hiện một số đề tài khoa học còn chậm so với tiến độ dự kiến, do đó tác dụng mở đường, đặt nền tảng lý luận cho hoạt động xây dựng pháp luật còn hạn chế; công tác khảo sát thực tiễn trong quá trình nghiên cứu một số đề tài còn kém hiệu quả.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Một số chương trình, chuyên ngành đào tạo chưa thật hợp lý, chưa sát với yêu cầu thực tiễn; phương pháp giảng dạy nhìn chung còn nặng về truyền thụ kiến thức, chưa làm tốt việc trang bị phương pháp tư duy, phát triển kỹ năng thực hành nghề luật cho sinh viên; hệ thống học liệu, giáo trình chưa đầy đủ; nội dung một số giáo trình còn đơn điệu, thiên về giải thích các quy định của luật thực định.
- Chế độ đãi ngộ đối với giảng viên, nhất là hỗ trợ giảng dạy chậm được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới; chưa khơi dậy tốt tiềm năng của đội ngũ giảng viên.
- Hoạt động nghiên cứu khoa học nhiều khi chưa chủ động do phải phụ thuộc nhiều vào đội ngũ cộng tác viên bên ngoài.
7. Công tác hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật
Năm 2008, toàn Ngành tiếp tục đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật; triển khai thực hiện Luật Tương trợ tư pháp; tập trung làm tốt công tác điều phối, kiểm tra các chương trình, dự án hợp tác pháp luật với việc đề cao nhiệm vụ điều phối hoạt động hợp tác ở cấp vĩ mô nhằm tận dụng triệt để và hợp lý sự hỗ trợ của nước ngoài đối với hoạt động xây dựng pháp luật, tăng cường thực thi pháp luật, đào tạo cán bộ pháp luật; nhờ đó công tác hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật đã đạt được những kết quả tích cực.
Công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp được triển khai với ý thức chính trị cao về việc giữ vững các nguyên tắc hợp tác, đặc biệt là đảm bảo an ninh chính trị; đồng thời linh hoạt trong tác nghiệp nhằm khai thác tốt nhất sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế phục vụ các mục tiêu cải cách pháp luật, cải cách tư pháp.
Trong năm 2008, Lãnh đạo Bộ đã tham gia một số Đoàn công tác của Chính phủ tham gia các Hội nghị, Diễn đàn hợp tác đa phương, qua đó, góp phần nâng cao vị thế của Ngành trong hoạt động đối ngoại của đất nước nói chung, trong hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật nói riêng.
Hoạt động ủy thác tư pháp được thực hiện đúng quy định. Tính đến ngày 30/9/2008, Bộ đã thực hiện ủy thác tư pháp 1.379 vụ, trả lại 178 hồ sơ do không đảm bảo yêu cầu quy định.
Thể chế về hợp tác với nước ngoài về pháp luật tiếp tục được hoàn thiện (xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2008/NĐ-CP ngày 17/7/2008 thay thế Nghị định số 103/1998/NĐ-CP); tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế; nối lại quan hệ với các đối tác truyền thống bị gián đoạn trong một thời gian; tăng cường quan hệ hợp tác với các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tham gia và tổ chức nhiều sự kiện lớn về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật[4]; tham gia Đoàn cán bộ Chính phủ thực hiện đối thoại nhân quyền với Hoa Kỳ (tháng 5/2008); phối hợp với Bộ Ngoại giao chuẩn bị Cơ chế Kiểm điểm định kỳ (UPR) của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc; tham gia đàm phán các Hiệp định trong ASEAN và các hiệp định về thương mại tự do giữa ASEAN với các nước, các Hiệp định song phương về kinh tế, thương mại, đầu tư với Nhật Bản, Nga, Canada; tư vấn cho Chính phủ hoặc trực tiếp tham gia ý kiến về giải quyết nhiều vụ tranh chấp quốc tế mà Việt Nam có liên quan như vụ Trịnh Vĩnh Bình, vụ tàu Cần Giờ, Vụ Glenco, vụ kiện chất độc màu da cam của các nạn nhân chiến tranh Việt Nam...
Bộ cũng đã triển khai có hiệu quả công tác tổng kết, sơ kết việc thực hiện một số nghị quyết, chỉ thị quan trọng của Đảng về hợp tác với nước ngoài về tư pháp và pháp luật: Chỉ thị số 57/CT-TW ngày 08/8/1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về hợp tác với nước ngoài về pháp luật và cải cách hành chính, Quy chế quản lý thống nhất hoạt động đối ngoại của Bộ Chính trị; tổng kết tình hình tiếp nhận và kết quả sử dụng tài trợ nước ngoài từ khi có Nghị quyết 08-NQ/TW.
Tuy nhiên, trong công tác hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật vẫn còn có một số hạn chế. Quy chế về hoạt động đối ngoại của Bộ còn chưa được thực hiện nghiêm chỉnh; hoạt động ủy thác tư pháp gặp nhiều khó khăn; nhiều trường hợp hồ sơ gửi đi các nước không có hồi âm hoặc các nước không thực hiện; thủ tục ủy thác tư pháp rườm rà, phức tạp và kéo dài. Những hạn chế nêu trên chủ yếu là do cơ sở pháp lý về ủy thác tư pháp còn nhiều bất cập; nước ta chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp với nhiều nước. Số lượng cán bộ đáp ứng tốt yêu cầu về năng lực, trình độ trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật còn thiếu; tính chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức trong lĩnh vực pháp luật quốc tế còn hạn chế. Mặt khác, kinh phí phục vụ các hoạt động hợp tác quốc tế còn eo hẹp, chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao.
a) Công tác đăng ký giao dịch bảo đảm
Trong năm 2008, số lượng vụ việc đã giải quyết trong toàn hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm cao hơn nhiều so với năm trước. Theo số liệu thống kê từ ngày 01/10/2007 đến ngày 30/9/2008, các Trung tâm Đăng ký giao dịch bảo đảm trong cả nước đã giải quyết được 122.453 đơn yêu cầu (tăng 137% so với năm 2007), 3.657 văn bản cung cấp thông tin (tăng 181% so với năm 2007).
Thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm có sự cải tiến, tạo điều kiện cho khách hàng tiết kiệm thời gian, bảo đảm được tính kịp thời của việc công khai hóa giao dịch và tra cứu thông tin. Việc triển khai ứng dụng tin học vào hoạt động đăng ký, cung cấp thông tin tại các Trung tâm đăng ký tiếp tục được chú trọng thực hiện, đảm bảo đồng bộ dữ liệu giữa các Trung tâm.
Hoạt động kiểm tra, hướng dẫn, giải đáp về chuyên môn, nghiệp vụ được thực hiện thường xuyên (tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tại thành phố Đà Nẵng và thành phố Cần Thơ; phối hợp với Sở Tư pháp tỉnh Điện Biên tổ chức lớp bồi dưỡng pháp luật về giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm cho cán bộ tư pháp của tỉnh; tiến hành kiểm tra tại 14 tỉnh, thành phố trên cả nước về tổ chức quản lý, thực hiện công tác đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất).
Bộ đã tập trung cao cho việc xây dựng Dự án Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm, Dự án Luật Đăng ký bất động sản và đã trình Chính phủ xem xét, cho ý kiến về Dự án Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm vào tháng 5/2008, Dự án Luật Đăng ký bất động sản vào tháng 6/2008. Ủy ban thường vụ Quốc hội đã hai lần cho ý kiến sơ bộ 02 dự án luật này. Bên cạnh đó, Bộ đã phối hợp với Bộ Tài chính sửa đổi quy định hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký và phí cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm.
Tuy nhiên, công tác giao dịch bảo đảm trong năm qua có một số hạn chế, yếu kém như: năng lực cán bộ đăng ký chưa đồng đều tại một số địa phương; cơ chế tổ chức, hoạt động chưa thực sự khoa học; còn tồn tại những thủ tục chưa thuận lợi cho người dân; việc kiểm tra công tác đăng ký giao dịch bảo đảm tại các địa phương còn chưa hiệu quả; hai dự án luật chưa được Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng tình.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nêu trên là do việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện kế hoạch, chương trình trong công tác đăng ký giao dịch bảo đảm có lúc chưa kịp thời, thường xuyên, thiếu quyết liệt; kinh phí còn hạn hẹp, ảnh hưởng đến một số hoạt động, nhất là việc xây dựng văn bản trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm.
b) Công tác kế hoạch, tài chính
Trong năm 2008, Bộ đã hoàn thành việc xây dựng Đề án thực hiện đổi mới phân bổ ngân sách đối với cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW gửi Ban Cán sự Đảng Bộ Tài Chính. Nội dung chính của Đề án tập trung vào việc tăng định mức chi thường xuyên cho các đơn vị thuộc Bộ quản lý lên 50% so với định mức hiện nay. Bộ cũng đã phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 19/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 19/02/2008 hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và kinh phí bảo đảm hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản; tiếp tục hoàn thiện Đề án phân cấp quản lý ngân sách, tài sản, Đề án phân cấp trong công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, Đề án mua sắm tài sản tập trung cho cơ quan thi hành án dân sự.
Bộ tiếp tục chỉ đạo thực hiện nghiêm, bảo đảm minh bạch, công khai và dân chủ trong công tác tài chính; phân cấp mạnh việc quản lý tài chính cho các cơ quan, đơn vị; tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của Thủ trưởng đơn vị trong quản lý chi tiêu ngân sách qua đó nâng cao hiệu quả chi tiêu;
Công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được quán triệt và thực hiện nghiêm túc trong toàn Ngành. Trong năm 2008 toàn Ngành tiết kiệm chi thường xuyên được 14.570 triệu đồng, cắt giảm 10 dự án đầu tư (trong đó có 07 dự án xây dựng trụ sở cơ quan thi hành án dân sự và 03 dự án xây dựng kho vật chứng) với số vốn là 12.560 triệu đồng, số vốn này được Bộ điều chuyển cho dự án khác có nhu cầu về vốn.
Công tác kiểm tra nghiệp vụ cũng như bồi dưỡng nghiệp vụ tài chính - kế toán cho cán bộ làm công tác ở địa phương được chú trọng hơn. Năm 2008, Bộ đã phối hợp với Học viện Tài chính mở 5 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý tài chính cho 756 chủ tài khoản của các đơn vị dự toán do Bộ quản lý; tổ chức tập huấn nghiệp vụ quản lý tài chính cho trên 800 chủ tài khoản; hoàn thành 06 lớp tập huấn cho trên 1.000 chấp hành viên về chế độ kế toán nghiệp vụ thi hành án; chủ động thực hiện việc kiểm tra tình hình đầu tư xây dựng cơ bản, tình hình xây dựng kho vật chứng tại một số công trình; thành lập các đoàn kiểm tra tình hình thu phí thi hành án, sử dụng phí thi hành án được để lại, công tác quản lý, sử dụng, hạch toán phí thi hành án...
Năm 2008, tỷ lệ các dự án triển khai xây dựng của Bộ đạt trên 80% kế hoạch năm; công tác phê duyệt quyết toán dự án đạt khoảng 60% kế hoạch năm; việc thẩm định, trình Bộ phê duyệt các dự án triển khai xây dựng trong năm 2009 đạt 84% số dự án đưa vào kế hoạch.
Bên cạnh đó, công tác kế hoạch, tài chính còn nhiều hạn chế, yếu kém, cụ thể như sau:
- Công tác xây dựng kế hoạch còn chưa được tập trung vào một đầu mối; chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa việc xây dựng kế hoạch công việc với kế hoạch tài chính dẫn đến tình trạng bị động, thậm chí có tình trạng một số công việc đã đề ra nhưng không có kinh phí để triển khai thực hiện.
- Tiến độ triển khai một số dự án đầu tư xây dựng cơ bản, triển khai mua sắm tập trung toàn ngành còn chậm.
- Một số dự án đã hoàn thành bàn giao và đưa vào sử dụng nhưng chủ đầu tư và nhà thầu chậm lập hồ sơ báo cáo quyết toán trình Bộ xem xét phê duyệt.
- Một số dự án đưa vào Kế hoạch đầu tư xây dựng năm 2009 nhưng chủ đầu tư chậm triển khai lập dự án trình Bộ phê duyệt trước ngày 31/10/2008 nên không được ghi vốn năm 2009.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là do các nguyên nhân sau đây:
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, cán bộ của đơn vị giúp Bộ trưởng về công tác kế hoạch, tài chính chậm được củng cố, kiện toàn.
- Giá cả vật tư năm 2008 có nhiều biến động, do vậy nhiều nhà thầu trúng thầu nhưng không khởi công mà chờ Chính phủ cho điều chỉnh giá; trình độ năng lực và hiểu biết của một số chủ đầu tư về lĩnh vực xây dựng còn hạn chế, nên một số dự án xây dựng xong từ trước năm 2006 nhưng chủ đầu tư không đôn đốc nhà thầu lập báo cáo quyết toán, không thuê kiểm toán để trình Bộ xem xét, phê duyệt.
- Sự phối hợp giữa các đơn vị trong việc triển khai mua sắm tập trung không chặt chẽ nên ảnh hưởng lớn đến tiến độ triển khai Kế hoạch.
- Một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến việc cấp đất xây dựng trụ sở và kho vật chứng cho các cơ quan thi hành án dân sự nên cơ quan thi hành án chưa thể lập dự án để đề nghị cấp vốn xây dựng trụ sở.
c) Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng chống tham nhũng
Công tác thanh tra được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm trên một số lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của Ngành. Qua thanh tra đã đưa ra được những kiến nghị về các giải pháp tháo gỡ khó khăn, bất cập của hệ thống pháp luật, tăng cường quản lý thuộc phạm vi quản lý của Ngành.
Các Sở Tư pháp chú trọng kiểm tra các quận, huyện, phường, xã về việc triển khai và thực hiện Chương trình công tác trọng tâm của Ngành và Kế hoạch công tác tư pháp ở địa phương.
Công tác tổ chức tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo tiếp tục có chuyển biến tích cực; một số vụ việc khiếu nại kéo dài từ nhiều năm đã được tập trung giải quyết dứt điểm; lịch tiếp công dân của Lãnh đạo Bộ, Cục trưởng Cục Thi hành án và Chánh Thanh tra Bộ được duy trì cơ bản theo đúng Quy chế tiếp công dân của Bộ; công tác phòng, chống tham nhũng được thực hiện đúng quy định trong Chương trình phòng, chống tham nhũng của Ngành.
Tuy nhiên, trong năm 2008, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa đảm bảo thời gian theo quy định của pháp luật; chưa chú trọng thực sự đến công tác thanh tra, kiểm tra ở một số địa phương.
Nguyên nhân của tình trạng trên chủ yếu là do đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra còn thiếu; năng lực, trình độ chuyên môn của nhiều cán bộ thanh tra chưa ngang tầm với yêu cầu công tác. Một số quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo còn bất cập.
Hoạt động của Văn phòng Bộ, Văn phòng các Sở Tư pháp trong năm qua có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là công tác tổng hợp, tham mưu cho lãnh đạo Bộ, lãnh đạo các Sở trong hoạt động chỉ đạo, điều hành, trong xây dựng, theo dõi và đôn đốc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Bộ và các cơ quan Tư pháp địa phương.
Văn phòng Bộ tham gia tích cực và có kết quả vào hoạt động xây dựng đề án, văn bản, nhất là các dự án luật, pháp lệnh; chủ động xây dựng lịch công tác quý, tháng, tuần của Lãnh đạo Bộ, bảo đảm tính khoa học, hợp lý; truyền đạt kịp thời, đầy đủ, chính xác ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ tới các đơn vị, đồng thời chủ động đôn đốc các đơn vị thực hiện các ý kiến chỉ đạo đó.
Việc thành lập Phòng Tổ chức - Hành chính ở cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh đã góp phần củng cố tổ chức và hoạt động của hệ thống tổ chức văn phòng trong Ngành.
Hạn chế, bất cập và nguyên nhân: công tác văn phòng, nhất là công tác tham mưu chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Bộ, lãnh đạo các Sở. Nguyên nhân chính là đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp còn mỏng (nhất là ở Bộ), còn những hạn chế về chuyên môn, kỹ năng thực hiện nhiệm vụ, trong khi yêu cầu công việc đòi hỏi ngày càng cao.
9. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp
Trong năm 2008, Bộ tiếp tục đẩy mạnh tiến độ triển khai Chương trình hành động của Bộ nhằm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm (khóa X) về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, đặc biệt tập trung vào lĩnh vực cải cách thể chế.
Các Đề án xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của cơ quan Bộ Tư pháp, Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp theo tinh thần của Quyết định số 30/QĐ-TTg được triển khai thực hiện; cơ sở dữ liệu về thủ tục hành chính như: tích hợp lên Cổng thông tin điện tử của Bộ trình tự, thủ tục giải quyết các thủ tục hành chính và các mẫu đơn, tờ khai trên các lĩnh vực để các cá nhân, tổ chức có nhu cầu tìm hiểu, tra cứu đang được xây dựng.
Trong năm qua, Bộ cũng đã tiến hành sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 49 trong ngành Tư pháp để ghi nhận những kết quả tích cực, chỉ rõ các bất cập, hạn chế, yếu kém, phân tích sâu nguyên nhân, nhất là các nguyên nhân chủ quan; từ đó xác định phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện nhiệm vụ của Ngành trong cải cách tư pháp từ nay đến năm 2011.
Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực cải cách tư pháp tiếp tục được chú trọng. Các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo, trình trong năm 2008 (như Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Thi hành án dân sự, Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi), Luật Bồi thường nhà nước, Luật Lý lịch tư pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1999...) đã thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Nghị quyết số 48, 49, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X và các hội nghị Trung ương khóa IX, khóa X về cải cách pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Những văn bản này, với những tư tưởng và nội dung mới đang góp phần tạo nên diện mạo, vị thế mới của hoạt động tư pháp.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, hoạt động cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong năm 2008 còn một số hạn chế, yếu kém sau đây:
- Việc triển khai thực hiện hoạt động rà soát thủ tục hành chính, triển khai hoạt động của Đề án xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của cơ quan Bộ Tư pháp chậm so với kế hoạch đề ra.
- Việc triển khai các nhiệm vụ CCHC của Bộ và các địa phương còn thiếu sự phối hợp, liên kết chặt chẽ.
- Chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh về thủ tục hành chính.
- Nhiệm vụ hoàn thiện thể chế theo tinh thần cải cách tư pháp chưa đạt được kết quả như mong muốn. Việc chuẩn bị dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2008 (các dự án thuộc trách nhiệm trình Chính phủ) chưa thực sự bám sát và đảm bảo gắn kết chặt chẽ giữa Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật (NQ48), Chiến lược cải cách tư pháp (NQ49) và Chương trình tổng thể cải cách hành chính 2001-2010, do đó, việc lựa chọn các ưu tiên để đưa vào Chương trình, trong một số trường hợp chưa thật hợp lý. Việc ban hành một số văn bản hướng dẫn thực hiện các luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư về thể chế của Ngành còn chậm, bởi vậy nhiều vướng mắc về thể chế, chính sách chưa được tháo gỡ kịp thời.
- Chất lượng hoạt động trong một số lĩnh vực công tác khác của Ngành chưa cao, chưa đáp ứng được các yêu cầu mà quá trình cải cách tư pháp đang đặt ra.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là do các nguyên nhân sau đây:
- Khối lượng nhiệm vụ cải cách tư pháp được giao cho Bộ, ngành Tư pháp quá lớn; một số nhiệm vụ triển khai trong tình trạng “vừa thiết kế, vừa thi công”, thiếu cơ sở pháp lý cho việc thực hiện (ví dụ: Đề án thí điểm thừa phát lại, Đề án chuẩn bị các điều kiện cần thiết để giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án...).
- Chưa có mô hình và cơ chế phù hợp để chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong nội bộ Ngành (không có Ban chỉ đạo chung nên việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai nhiệm vụ chưa sâu sát, kịp thời).
- Nguồn nhân lực thực hiện cải cách tư pháp còn thiếu, chất lượng chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; chế độ đãi ngộ trong việc sử dụng cán bộ pháp luật trong các ngành tư pháp kém hấp dẫn so với các ngành khác; nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của các cơ quan tư pháp còn nhiều khó khăn.
10. Hoạt động chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp
Hoạt động chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp năm 2008 có nhiều điểm mới và chuyển biến tích cực, cụ thể như sau:
Hoạt động chỉ đạo, điều hành chủ yếu dựa vào chương trình, kế hoạch được xây dựng một cách nghiêm túc, đi vào thực chất, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung giải quyết các nhiệm vụ cấp thiết, đáp ứng đòi hỏi bức xúc mà thực tiễn đang đặt ra. Trên cơ sở các Nghị quyết, Chương trình công tác của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngay từ đầu năm, Bộ đã sớm ban hành Chương trình công tác trọng tâm của ngành Tư pháp năm 2008 (Quyết định số 49/QĐ-BTP ngày 16/01/2008), trong đó xác định rõ 7 nhóm nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong năm 2008 và các năm tiếp theo. Căn cứ các nhiệm vụ trọng tâm của Bộ, ngành và địa phương, các tổ chức, đơn vị thuộc Bộ, tổ chức Pháp chế Bộ, ngành, cơ quan Tư pháp và cơ quan Thi hành án dân sự các địa phương đã chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch công tác cụ thể của mình, phù hợp với kế hoạch chung và năng lực thực tế của từng đơn vị. Phần lớn chương trình, kế hoạch công tác đã xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung thực hiện và cách thức tổ chức thực hiện, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động chỉ đạo, điều hành các mặt công tác của toàn Ngành và từng đơn vị.
Hoạt động chỉ đạo, điều hành sát với thực tiễn, bám sát yêu cầu nhiệm vụ và chú trọng hướng về cơ sở. Từ nhận thức công tác tư pháp không đứng ngoài quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các hoạt động tư pháp đã chú trọng phục vụ trực tiếp nhu cầu của các tổ chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Lãnh đạo Bộ đã theo dõi sát sao, kịp thời các sự kiện thông qua các kênh thông tin khác nhau, nhất là thông tin báo chí để kịp thời chỉ đạo xử lý những vấn đề bức xúc liên quan đến hoạt động tư pháp. Lãnh đạo Bộ và các đơn vị chú trọng duy trì mối liên hệ thường xuyên với cơ sở; cử nhiều đoàn về địa phương, xuống tận cơ sở nắm tình hình, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn cơ quan tư pháp địa phương thực hiện công tác theo chương trình, kế hoạch; kịp thời giúp các cơ quan Tư pháp địa phương giải quyết các vướng mắc phát sinh, nhờ đó, vị thế của công tác tư pháp ở địa phương được quan tâm hơn; quan hệ với các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương được tăng cường; cơ chế phối hợp mang tính liên ngành trong tổ chức thực hiện công tác tư pháp có nhiều chuyển biến tích cực; nhiều vướng mắc phát sinh trong thực tiễn công tác tư pháp địa phương được khắc phục. Hội nghị giao ban 6 tháng đầu năm tại 2 miền cũng như nhiều hoạt động khảo sát, điều tra dư luận xã hội được tiến hành mạnh ở cơ sở đã giúp lãnh đạo Bộ, thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ nắm bắt nhu cầu thực tiễn, xây dựng chính sách phù hợp, sớm phát hiện những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở để kịp thời chỉ đạo tháo gỡ và thực hiện thống nhất trong toàn quốc.
Sự phối hợp công tác giữa ngành Tư pháp với các ngành hữu quan, nhất là với các đơn vị chức năng của Quốc hội, các ngành Tòa án, Kiểm sát[5]; giữa Bộ với các Tổ chức pháp chế và chính quyền địa phương; giữa cơ quan tư pháp cấp tỉnh với cấp ủy, chính quyền cấp huyện và giữa tư pháp cấp huyện với cấp ủy, chính quyền cấp xã được tăng cường và phát huy hiệu quả. Nhìn chung, các cơ quan tư pháp địa phương đã chú trọng phối hợp với các ngành hữu quan, tranh thủ sức mạnh của hệ thống chính trị ở địa phương trong triển khai thực hiện nhiệm vụ, nhất là trong công tác thi hành án dân sự, phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý, nhờ đó cấp ủy, chính quyền nhiều địa phương đã quan tâm hơn tới công tác tư pháp.
Việc phân công công tác trong tập thể Lãnh đạo Bộ có nhiều đổi mới: Bộ trưởng trực tiếp chỉ đạo, điều hành các công việc lớn, quan trọng, các vấn đề có tính chiến lược trên tất cả các lĩnh vực công tác của Bộ, của Ngành; các Thứ trưởng được phân công giúp Bộ trưởng chỉ đạo, xử lý các công việc cụ thể trong từng lĩnh vực, chủ động giải quyết các công việc chuyên môn, kế hoạch, tài chính; đề xuất ý kiến về công tác cán bộ, thi đua, khen thưởng; chịu trách nhiệm trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các đơn vị được phân công phụ trách. Chế độ giao ban Lãnh đạo Bộ hàng tuần, giao ban Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ hàng tháng, giao ban cán bộ cấp vụ hàng quý cơ bản được duy trì tốt; cách thức điều hành dân chủ, cởi mở; nội dung thiết thực, sau mỗi cuộc họp đều có thông báo kết luận cụ thể, rõ ràng.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành được Bộ quan tâm, đạt được những kết quả cụ thể; cải cách hành chính trong hoạt động chỉ đạo, điều hành tiếp tục được đẩy mạnh.
Tuy nhiên, hoạt động chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp trong năm qua còn một số khó khăn, vướng mắc. Một số cơ quan, đơn vị chưa chú trọng xây dựng chương trình công tác cụ thể, sát với chương trình trọng tâm của địa phương và của Ngành. Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng thụ động trong triển khai thực hiện nhiệm vụ; quan hệ phối hợp công tác, tuy đã được cải thiện, nhưng chưa đồng đều ở các đơn vị, địa phương, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Việc hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ của một số đơn vị chức năng thuộc Bộ nhiều khi chưa kịp thời. Trong một số trường hợp, Lãnh đạo Bộ chỉ đạo rất sát sao nhưng việc tổ chức thực hiện của các đơn vị thuộc Bộ còn chưa hiệu quả. Công tác thống kê, chế độ báo cáo, cơ chế thông tin hai chiều còn nhiều hạn chế; số liệu báo cáo không đầy đủ, một số trường hợp thiếu chính xác; nội dung báo cáo chưa phân tích, đánh giá sâu tình hình thực hiện nhiệm vụ, ít đề xuất được các giải pháp xác đáng.
Đánh giá chung:
Công tác tư pháp năm 2008 được toàn Ngành triển khai có trọng tâm, trọng điểm, bám sát các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và nhiệm vụ chính trị của từng địa phương. Nhiều lĩnh vực công tác đạt kết quả tốt, đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của đất nước về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Nhờ đó, vai trò của công tác tư pháp trong đời sống chính trị, kinh tế - xã hội ngày càng được khẳng định; vị trí của Ngành từ Trung ương đến địa phương ngày càng được củng cố, tăng cường. Bên cạnh đó, công tác tư pháp năm 2008 vẫn còn một số hạn chế, yếu kém cần nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá đúng nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, rút kinh nghiệm và kịp thời chấn chỉnh, khắc phục để công tác năm 2009 được triển khai đúng phương hướng, có trọng tâm, trọng điểm với những chuyển biến mạnh mẽ hơn.
Qua một năm công tác có thể rút ra một số bài học cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phải biết tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, sự quan tâm, ủng hộ của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, nhất là sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; cần kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo về những khó khăn, vướng mắc hoặc những vấn đề mới.
Thứ hai, xác định đúng công việc trọng tâm, trọng điểm và có giải pháp thực hiện phù hợp; chủ động bám sát kế hoạch, nhiệm vụ chính trị của Chính phủ, Bộ, Ngành và địa phương.
Thứ ba, quan tâm xây dựng, hoàn thiện thể chế; chú trọng công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành theo kế hoạch; đặc biệt coi trọng công tác tổ chức, cán bộ, nhất là việc kiện toàn người đứng đầu đủ năng lực, trình độ, gương mẫu về phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm và hoàn thành công tác.
Thứ tư, sâu sát, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, lắng nghe ý kiến phản ánh từ cơ sở, từ xã hội.
Thứ năm, chủ động thiết lập, thường xuyên duy trì, sử dụng hiệu quả quan hệ phối hợp công tác trong và ngoài Ngành.
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2009
Năm 2009, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế tiếp tục tác động xấu đến sự phát triển kinh tế nước ta; hầu hết các ngành sản xuất bị suy giảm, thị trường trong và ngoài nước bị thu hẹp; những tồn tại, bất cập vốn có của nền kinh tế nước ta vẫn còn. Trước những diễn biến mới của tình hình, để ngăn chặn suy giảm sâu của nền kinh tế, duy trì tăng trưởng hợp lý, tạo tiền đề thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010, Quốc hội đã thông qua mục tiêu phát triển kinh tế xã hội năm 2009, trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện các giải pháp để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội.
Năm 2009 đặt ra những nhiệm vụ nặng nề cho Ngành Tư pháp: đây là năm thứ tư triển khai thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và Chiến lược cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 48/NQ-TW, Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị với quy mô ngày càng rộng và nội dung ngày càng sâu sắc; Ngành phải triển khai thực hiện những nhiệm vụ mới, phức tạp, trong khi quá trình hội nhập và phát triển của đất nước, kỳ vọng của người dân vào công lý, công bằng xã hội đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với công tác tư pháp.
Bên cạnh đó, việc triển khai nhiệm vụ công tác tư pháp năm 2009 cũng có những điều kiện thuận lợi. Sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đối với công tác tư pháp ngày càng lớn, thể hiện rõ qua những chủ trương, chiến lược về hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; thể chế, bộ máy của Ngành đã được kiện toàn một bước; chức năng, nhiệm vụ được mở rộng; vai trò, vị thế của Ngành trong hệ thống chính trị ngày càng được nâng cao và được xã hội ghi nhận; sự phối hợp giữa ngành Tư pháp với các Bộ, ngành, địa phương ngày càng được tăng cường.
Ngành Tư pháp đề ra phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu thực hiện công tác tư pháp năm 2009 như sau:
1. Bám sát kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 của đất nước, Nghị quyết của Chính phủ về chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2009, kịp thời tham mưu cho Chính phủ, các Bộ, ngành, HĐND, UBND các cấp xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý phục vụ đắc lực cho việc thực hiện nhiệm vụ. Hoàn thành kế hoạch xây dựng các dự án luật, pháp lệnh của Ngành; tham mưu, phối hợp cùng các Bộ, ngành, địa phương trong hoạt xây dựng pháp luật. Đẩy mạnh hoạt động rà soát, kiểm tra VBQPPL do các cơ quan Trung ương và địa phương ban hành, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam. Triển khai nhiệm vụ theo dõi chung tình hình thi hành pháp luật trên phạm vi cả nước và ở từng Bộ, ngành, địa phương; tham mưu, đề xuất các giải pháp thực thi hiệu quả pháp luật, góp phần chuyển tải kịp thời đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống.
2. Tập trung nguồn lực triển khai thực hiện Luật THADS và Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật THADS; tăng cường cơ sở vật chất, thể chế, chính sách, tổ chức cán bộ nhằm chấn chỉnh và tạo chuyển biến tích cực trong công tác THADS trên phạm vi toàn quốc.
3. Tham mưu, phối hợp, theo dõi, hướng dẫn công tác xây dựng và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực hành chính tư pháp, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ để Nhà nước quản lý thống nhất và bảo vệ các quyền nhân thân của cá nhân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Tổ chức thi hành tốt Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi).
4. Tham mưu, phối hợp, theo dõi, hướng dẫn công tác xây dựng và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Đánh giá tình hình thực hiện Luật Công chứng và hoạt động công chứng, chứng thực trên cả nước. Nghiên cứu cơ chế, chính sách để tiếp tục huy động các thành phần xã hội cùng tham gia nhằm thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp.
5. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong phạm vi quản lý của Ngành. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tổ chức cán bộ của Ngành để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được phân công; kiện toàn tổ chức hệ thống cơ quan THADS và cơ quan tư pháp xã, phường, thị trấn. Nâng cao năng lực các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ Tư pháp và tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng đào tạo luật, đào tạo nghề. Triển khai thực hiện Đề án "Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường đại học trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật” và Đề án "Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp” sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
6. Tăng cường hơn nữa sự phối hợp với các Bộ, ngành ở Trung ương, các cấp ủy, chính quyền địa phương trong quá trình triển khai các hoạt động của Ngành, coi đây là một yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của công tác tư pháp. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp để tận dụng các nguồn lực bên ngoài triển khai tốt các nhiệm vụ của Ngành.
II. CÁC NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
- Hoàn thành đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng các dự án, dự thảo văn bản pháp luật mà Ngành được giao chủ trì soạn thảo theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Chương trình công tác của Chính phủ, các Bộ, ngành, HĐND và UBND; thực hiện tốt công tác tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội.
- Cải thiện một bước chất lượng thẩm định VBQPPL, chú trọng đánh giá tính khả thi, hiệu quả kinh tế - xã hội, khuyến khích những điểm mới mang tính đột phá của các đề án, dự án VBQPPL, nhất là trong lĩnh vực pháp luật kinh tế, hội nhập quốc tế.
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả hoạt động kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL theo thẩm quyền, trách nhiệm và kế hoạch công tác; triển khai thực hiện Đề án tổng rà soát, hệ thống pháp luật Việt Nam, trước hết là các VBQPPL do Trung ương ban hành; theo dõi, đôn đốc quá trình xử lý văn bản trái pháp luật đã được phát hiện; thực hiện tốt việc rà soát các VBQPPL theo cam kết khi gia nhập và trong khuôn khổ nghĩa vụ thành viên WTO.
Các giải pháp chủ yếu:
- Tiến hành đồng bộ các công việc để triển khai thực hiện Luật ban hành VBQPPL, như: chủ động ban hành hoặc phối hợp với các Bộ, ngành liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật; tích cực tuyên truyền phổ biến, tập huấn những nội dung cơ bản của Luật; tham mưu cho Chính phủ, các Bộ, ngành tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong khi thi hành Luật; tăng cường cơ sở vật chất và nhân sự cho các đơn vị trực tiếp triển khai thi hành Luật.
- Tổ chức pháp chế Bộ, ngành, các cơ quan Tư pháp địa phương chủ động tham gia tích cực vào hoạt động xây dựng pháp luật ở Bộ, ngành, địa phương mình, thực sự trở thành bộ phận tham mưu, chỗ dựa đáng tin cậy cho các Bộ, ngành, HĐND, UBND trong việc xây dựng chính sách, pháp luật.
- Triển khai hiệu quả Đề án nâng cao chất lượng thẩm định của Bộ Tư pháp đối với dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và Điều ước quốc tế; Đề án về đổi mới và nâng cao hiệu quả trong công tác rà soát, hệ thống hóa VBQPPL; Đề án tăng cường năng lực trong công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL.
- Kiện toàn tổ chức, hoạt động của hệ thống kiểm tra văn bản trên toàn quốc; bổ sung cán bộ làm công tác văn bản ở các địa phương; chú trọng hướng dẫn nghiệp vụ, tập huấn cho cán bộ trực tiếp làm công tác văn bản.
- Tích cực, chủ động trong việc phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát hệ thống VBQPPL; tham gia ngay từ khâu đầu tiên của quy trình soạn thảo VBQPPL ở tất cả các Bộ, ngành.
- Sử dụng tốt hơn nữa cơ chế phản biện xã hội trong việc thẩm định các dự án, đề án xây dựng luật; khai thác tốt các kênh thông tin báo chí và ý kiến phản hồi của người dân và doanh nghiệp về những bất cập của pháp luật để kịp thời kiểm tra, rà soát hệ thống VBQPPL.
2. Tiếp tục nâng cao hiệu quả, tạo bước chuyển biến mạnh trong công tác thi hành án dân sự
- Toàn ngành THADS phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu thi hành xong 75 % về việc và 55% về tiền trên số vụ việc có điều kiện thi hành, giảm từ 10 đến 15% án tồn đọng.
- Giải quyết khiếu nại đúng thời hạn, đúng pháp luật ngay từ cơ sở, giảm thiểu đến mức tối đa những khiếu nại phức tạp mới phát sinh; giảm từ 20 đến 25 % các vụ khiếu nại phức tạp, kéo dài.
- Triển khai thực hiện tốt Luật THADS, Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật THADS, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác THADS; triển khai Đề án thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại tại TP. HCM khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, từ đó nghiên cứu phương án mở rộng địa bàn thí điểm sang một số địa phương khác.
- Xây dựng và trình Đề án chuẩn bị các điều kiện cần thiết để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về thi hành án, Đề án thành lập cơ quan thi hành án khu vực.
Các giải pháp chủ yếu:
- Giao chỉ tiêu cụ thể về thi hành án theo từng địa bàn, từng địa phương; tổ chức các đợt cao điểm thi hành án trong cà nước; hoàn thành việc tổng rà soát các vụ việc tồn đọng chưa thi hành.
- Chủ động ban hành hoặc phối hợp với các Bộ, ban, ngành liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật THADS; tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, tập huấn những nội dung cơ bản của Luật; tham mưu cho Chính phủ, các Bộ, ngành tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong khi thi hành Luật...
- Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg ngày 01/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan THADS các cấp; chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương, nâng cao tính chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức làm công tác THADS; động viên, khen thưởng, nêu gương kịp thời các đơn vị, cá nhân có thành tích trong công tác THADS, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.
- Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác kiện toàn cán bộ lãnh đạo, quản lý, Chấp hành viên các cơ quan THADS tại địa phương, trong việc chỉ đạo tổ chức các đợt cao điểm THADS tại những nơi có số lượng án lớn, phức tạp; phối hợp chặt chẽ với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân địa phương để tháo gỡ kịp thời những vướng mắc trong công tác THADS.
- Thực hiện đúng, đầy đủ trình tự, thủ tục THADS; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra về thi hành án, nhất là đối với những nơi có đơn thư khiếu nại, tố cáo; tổ chức kiểm tra liên ngành về thực hiện quy định xét miễn, giảm khoản án phí, tiền phạt.
- Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các đề án về tăng cường cơ sở vật chất, xây dựng trụ sở, kho vật chứng, kinh phí hoạt động cho các cơ quan THADS.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về thi hành án để tranh thủ sự hỗ trợ về kỹ thuật cho công tác nghiên cứu, đề xuất việc hoàn thiện thể chế, thủ tục THADS và bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức thi hành án.
- Triển khai thực hiện Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi).
- Tiếp tục chỉnh lý Luật Lý lịch tư pháp, triển khai xây dựng Luật Con nuôi; chuẩn bị và đề xuất đưa việc xây dựng Luật Hộ tịch vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội; tham gia Công ước LaHay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế.
- Chuẩn hóa các mẫu giấy tờ hộ tịch, giải quyết dứt điểm vấn đề thiếu biểu mẫu hộ tịch.
- Tăng cường quản lý Nhà nước, đảm bảo lành mạnh hóa quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài và việc cho con nuôi người nước ngoài.
- Giải quyết dứt điểm vấn đề quốc tịch cho người Campuchia tị nạn; giải quyết tình trạng di cư tự do, vượt biên trái phép và kết hôn không giá thú ở khu vực biên giới Việt Nam - Lào.
Các giải pháp chủ yếu:
- Chủ động ban hành hoặc phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam; tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, tập huấn những nội dung cơ bản của Luật; tham mưu cho Chính phủ, các Bộ, ngành tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong khi thi hành Luật.
- Tham mưu cho Chính phủ, các Bộ, ngành chuẩn bị các điều kiện và hồ sơ pháp lý để gia nhập Công ước LaHay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế.
- Tiếp tục rà soát, đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong hoạt động chứng thực, hộ tịch.
- Kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp cơ sở, nhất là đội ngũ cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã, phường, thị trấn; chú trọng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, kiến thức pháp luật cho cán bộ tư pháp - hộ tích cấp xã, phường, thị trấn.
- Khảo sát, đánh giá, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài phục vụ việc xây dựng Luật nuôi con nuôi; kiểm tra, phát hiện và khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập trong công tác hành chính tư pháp; tổ chức kiểm tra công tác đăng ký kết hôn và giải quyết các trường hợp hôn nhân có yếu tố nước ngoài; kiểm tra, rà soát, chấn chỉnh hoạt động của các Văn phòng con nuôi nước ngoài trên toàn quốc.
- Kiểm tra, rà soát, báo cáo tình hình và tham mưu cho Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan trong việc giải quyết vấn đề quốc tịch cho người Campuchia tị nạn. Tổ chức thực hiện Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 31/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc giải quyết tình trạng di cư tự do, vượt biên trái phép và kết hôn không giá thú ở khu vực biên giới Việt Nam - Lào.
- Tổ chức thành công Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất để thành lập Liên đoàn luật sư Việt Nam.
- Hoàn thành và trình Chính phủ Đề án về chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020, Đề án quy hoạch phát triển nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020; nghiên cứu, đề xuất đưa việc xây dựng Luật Đấu giá tài sản vào Chương trình xây dựng luật của Quốc hội.
- Tổ chức tổng kết 4 năm thi hành Pháp lệnh Giám định tư pháp phục vụ việc xây dựng Dự án Luật Giám định tư pháp.
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản; tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.
- Tập trung tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động công chứng, tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức hành nghề công chứng.
Các giải pháp chủ yếu:
- Phối hợp chặt chẽ với Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất chỉ đạo Hội đồng lâm thời luật sư toàn quốc khẩn trương hoàn thành các công việc chuẩn bị tổ chức Đại hội.
- Tiến hành nghiên cứu, xác định rõ mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động giám định tư pháp; thực hiện các biện pháp thu hút cơ quan, tổ chức, chuyên gia giỏi tham gia hoạt động giám định tư pháp; phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và địa phương tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về chế độ, chính sách trong hoạt động giám định tư pháp.
- Khẩn trương tổ chức lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức có liên quan về Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ; chủ động trao đổi, thống nhất về những vấn đề có ý kiến khác nhau của Dự thảo Nghị định.
- Sơ kết, đánh giá kết quả hai năm thực hiện Luật Công chứng năm 2006; kiến nghị những điểm bất cập và tham mưu cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phương hướng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; nghiên cứu, đề xuất phương án chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất từ UBND sang cho các tổ chức công chứng.
a) Về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
- Phối hợp với Văn phòng Trung ương Đảng giúp Ban Bí thư tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.
- Tiếp tục thực hiện Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ từ năm 2008 - 2012; triển khai Đề án củng cố và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công tác PBGDPL giai đoạn 2008 - 2012.
- Tiếp tục thực hiện Giai đoạn II (2009 - 2010) Chương trình hành động quốc gia PBGDPL và nâng cao ý thức chấp hành PL cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 - 2010 (Chương trình 212) và Đề án 4 trong Chương trình 212.
- Triển khai xây dựng các dự thảo Luật PBGDPL và Luật Hòa giải, góp phần thực hiện tốt công tác hoà giải ở cơ sở.
Các giải pháp chủ yếu:
- Rà soát, đánh giá lại kết quả triển khai các chương trình, đề án về công tác PBGDPL, phát hiện những tồn tại yếu kém, tìm ra những nguyên nhân để từ đó có các giải pháp khắc phục.
- Chọn lọc và nhân rộng những gương điển hình, những cách làm mới, hiệu quả trong hoạt động PBGDPL.
- Tiếp tục củng cố, phát huy vai trò của Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL ở các cấp.
- Tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL, nhất là ở cấp huyện và xã.
- Phát huy vai trò, tác dụng của mô hình Tủ sách pháp luật tại xã, phường, thị trấn.
b) Về công tác trợ giúp pháp lý
- Nghiên cứu xây dựng Chiến lược phát triển hoạt động TGPL đến năm 2020 để trình Thủ tướng Chính phủ ban hành vào năm 2010. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật TGPL. Khảo sát, đánh giá thực tiễn về tính khả thi của các văn bản, đề án đã ban hành, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
- Xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 792/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008-2010, định hướng đến năm 2015 và tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch đó;
- Tiếp tục chỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện Luật TGPL, Nghị định số 07/2007/NĐ-CP và Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó tập trung vào việc củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy các Trung tâm TGPL theo Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT-BTP-BNV. Phát triển mạng lưới Chi nhánh, Tổ cộng tác viên TGPL ở cấp huyện và Câu lạc bộ TGPL ở cấp xã.
- Tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thực hiện có hiệu quả chính sách TGPL trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và Chương trình 135 giai đoạn II.
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động TGPL lưu động ở vùng sâu, vùng xa và hoạt động trợ giúp cho các đối tượng là người dân tộc, đối tượng chính sách. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Thông tư liên tịch số 10/TTLT phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng.
Các giải pháp chủ yếu:
- Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức các Trung tâm TGPL; phát triển mạng lưới Chi nhánh, Tổ cộng tác viên TGPL ở cấp huyện và Câu lạc bộ TGPL ở cấp xã; tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ và cộng tác viên TGPL; mở rộng mạng lưới cộng tác viên ở cấp huyện và cấp xã; chỉ đạo thực hiện tốt Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, Quy tắc nghề nghiệp TGPL.
- Triển khai hiệu quả hoạt động của Quỹ TGPL; khảo sát, dự báo nhu cầu hỗ trợ và xây dựng kế hoạch hỗ trợ từ Quỹ TGPL cho các địa phương; hướng dẫn triển khai các hoạt động TGPL cho các đơn vị nhận hỗ trợ từ Quỹ; phối hợp với Sở Tư pháp và Kho bạc Nhà nước để kiểm tra việc thực hiện.
- Tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ của các Trung tâm, Chi nhánh, phát triển đội ngũ Cộng tác viên ở cấp huyện và cấp xã.
- Thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Dự án, kịp thời hướng dẫn các địa phương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Dự án bảo đảm có hiệu quả, đúng cam kết và theo quy định của pháp luật.
- Tăng cường kiểm tra, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động TGPL.
c) Về công tác báo chí, xuất bản:
- Chuyển tải kịp thời thông tin về hoạt động của Ngành; nâng cao chất lượng, tính thời sự và hàm lượng khoa học của các tin, bài, ấn phẩm phát hành.
- Triển khai thực hiện Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Báo Pháp luật Việt Nam, Đề án Báo điện tử Báo Pháp luật Việt Nam; Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp (sau khi được phê duyệt).
- Nhanh chóng ổn định hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp; giải quyết dứt điểm những vướng mắc, tồn đọng trong phát hành biểu mẫu, sổ sách và các loại tài liệu của Nhà xuất bản Tư pháp.
Các giải pháp chủ yếu:
- Có cơ chế khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức tham gia viết bài, đưa tin cho các báo, tạp chí, ấn phẩm của Ngành.
- Nâng cao ý thức chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp, trình độ chuyên môn (nhất là chuyên môn về luật), nghiệp vụ báo chí cho đội ngũ phóng viên, cộng tác viên và những người làm công tác báo chí, xuất bản.
- Đa dạng hóa các kênh phát hành báo, tạp chí và các ấn phẩm pháp lý, chú trọng công tác quảng cáo, quan hệ công chúng để xây dựng hình ảnh, thương hiệu cho các báo, tạp chí, chuyên san, Nhà xuất bản của Ngành.
d) Về ứng dụng công nghệ thông tin
- Tiếp tục triển khai Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành theo Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước năm 2008; triển khai Chỉ thị số 34/2008/CT-TTg ngày 3-12-2008 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sử dụng thư điện tử phục vụ công việc của Ngành.
- Triển khai Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Bộ năm 2009-2010 ban hành kèm theo Quyết định số 1579/QĐ-BTTTT ngày 24/10/2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông.
- Triển khai hệ thống thông tin ngành Tư pháp thông suốt từ Bộ đến các Sở Tư pháp, cơ quan THADS địa phương; ứng dụng phần mềm quản lý văn bản và hồ sơ công việc; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức giao lưu, giao ban trực tuyến.
Các giải pháp chủ yếu:
- Đôn đốc, giám sát, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực hoạt động của Ngành, nhất là trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, báo cáo, thống kê công tác tư pháp.
- Xây dựng quy chế và tổ chức thực hiện tốt việc tiếp nhận, cung cấp thông tin theo nguyên tắc công khai, minh bạch, kịp thời, đầy đủ và chính xác, đảm bảo an toàn thông tin trên môi trường mạng theo quy định của pháp luật;
- Đổi mới và nâng cao chất lượng các Trang thông tin trên Cổng thông tin điện tử của Bộ.
- Kiện toàn tổ chức, nhân sự của Cục Công nghệ thông tin.
- Tiếp tục nâng cao trình độ tin học của cán bộ, công chức, viên chức; hình thành thói quen làm việc trên văn bản điện tử, môi trường mạng và hệ thống thông tin trợ giúp.
- Đầu tư đầy đủ, đồng bộ các thiết bị kỹ thuật phục vụ cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công việc của Ngành.
6. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp
- Tiếp tục triển khai hiệu quả Luật tương trợ tư pháp năm 2007, Nghị định số số 78/2008/NĐ-CP ngày 17/7/2008 về hợp tác với nước ngoài về pháp luật.
- Củng cố quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp với các nước, tổ chức quốc tế; mở rộng hợp tác với các nước có tiềm năng; chú trọng tăng cường hợp tác với các đối tác truyền thống, các nước láng giềng các nước trong khu vực.
- Xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế của Bộ, Ngành, trong đó chú trọng tăng cường quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực, các nước có truyền thống pháp lý tương tự Việt Nam.
Các giải pháp chủ yếu:
- Rà soát, đánh giá tình hình triển khai hiệu quả Luật tương trợ tư pháp và tham mưu cho Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan có các biện pháp tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành Luật.
- Tham mưu với Chính phủ, Nhà nước ký kết, tham gia các điều ước, diễn đàn quốc tế về pháp luật và tư pháp (kết thúc đàm phán Hiệp định tương trợ tư pháp với Vương quốc Anh, An-Giê-ri; chuẩn bị phương án đàm phán với Campuchia, Ấn Độ, Đài Loan...; nghiên cứu tham gia một số công ước quốc tế La Hay về tư pháp quốc tế).
- Tiếp tục huy động các nguồn hỗ trợ quốc tế, tham khảo kinh nghiệm các nước phục vụ các mục tiêu cải cách pháp luật, cải cách tư pháp và Chương trình công tác trọng tâm năm 2009 của Ngành.
- Chủ động hơn nữa trong việc xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế của Bộ, Ngành trên cơ sở bám sát và để thực hiện tốt nhiệm vụ của Bộ, Ngành.
a) Về công tác tổ chức cán bộ của Ngành
- Tiếp tục triển khai Nghị định 93/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp; kiện toàn các đơn vị thuộc Bộ; triển khai tổ chức và hoạt động của các đơn vị mới được thành lập theo Nghị định 93/2008/NĐ-CP.
- Triển khai thực hiện tốt Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV Hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương.
- Hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển ngành Tư pháp đến năm 2020.
- Triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ theo dõi chung về thi hành pháp luật.
Các giải pháp chủ yếu:
- Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, điều chỉnh quy hoạch cán bộ theo định kỳ, chú trọng điều kiện phát triển của công chức trẻ, công chức nữ; tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo cán bộ có trình độ phục vụ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tiếp tục kiện toàn đội ngũ cán bộ, đặc biệt chú trọng đến các đơn vị mới thành lập và đơn vị chuyển giao hoặc được bổ sung nhiệm vụ; Bộ tiếp tục hỗ trợ các địa phương trong công tác chuẩn hóa đội ngũ công chức tư pháp, tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho tư pháp cấp huyện, cấp xã.
- Thực hiện việc điều động, luân chuyển cán bộ, đặc biệt là việc luân chuyển cán bộ từ Trung ương về địa phương và luân chuyển cán bộ trẻ đi địa phương để nâng cao hiểu biết thực tế về tư pháp địa phương.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc phân cấp, phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị thuộc Bộ và các địa phương trong công tác tổ chức cán bộ.
b) Về công tác đào tạo cán bộ pháp luật
- Triển khai thực hiện Đề án "Xây dựng trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật" và Đề án "Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp" sau khi được Chính phủ phê duyệt.
- Hoàn thiện Đề án thành lập một số trường trung cấp luật trình các cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt và đưa vào triển khai thực hiện.
- Tạo chuyển biến mạnh về chất lượng trong hoạt động đào tạo luật, đào tạo các chức danh tư pháp.
Các giải pháp chủ yếu:
- Chỉ đạo Trường Đại học Luật Hà Nội và Học viện Tư pháp tích cực xúc tiến công tác triển khai Đề án "Xây dựng trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật" và Đề án "Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp" sau khi được Chính phủ phê duyệt. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, kinh phí, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai các Đề án trên.
- Phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai thực hiện Đề án đưa pháp luật các nước ASEAN vào giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật.
- Xây dựng và thực hiện hiệu quả cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan (như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Liên đoàn Luật sư Việt Nam) trong hoạt động đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp nhằm tháo gỡ các khó khăn trước mắt, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo các chức danh tư pháp.
c) Về công tác nghiên cứu khoa học
- Tập trung nghiên cứu cơ bản, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để phục vụ việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, nhất là thể chế Ngành; xây dựng chiến lược phát triển Ngành Tư pháp; nghiên cứu hỗ trợ phân tích chính sách, tác động kinh tế - xã hội nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật và các thiết chế thực hiện pháp luật; nghiên cứu những vấn đề mới, hiện đại trong khoa học pháp lý quốc tế và đề xuất khả năng áp dụng vào Việt Nam; nghiên cứu chuyên sâu góp phần hình thành những trường phái, học thuyết pháp luật của Việt Nam.
- Chú trọng nghiên cứu ứng dụng, góp phần triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của Ngành.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, phương thức tổ chức công tác nghiên cứu khoa học, đánh giá kết quả và triển khai ứng dụng kết quả đề tài vào trong thực tiễn.
Các giải pháp chủ yếu:
- Tăng cường đầu tư kinh phí cho công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Ngành, của Bộ, nhất là cho các đầu mối nghiên cứu khoa học như Viện Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Hà Nội, v.v...
- Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng đề tài, tổ chức đấu thầu, triển khai nghiên cứu. Có cơ chế thỏa đáng để khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức của Bộ và của Ngành tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân, tích lũy kiến thức chuyên sâu và đóng góp cho hoạt động của Bộ, Ngành.
- Đa dạng hóa hình thức tổ chức nghiên cứu khoa học theo phương châm thiết thực, hiệu quả; phát huy trí tuệ của đội ngũ chuyên gia trong và ngoài Ngành; gắn kết nghiên cứu lý luận với nghiên cứu thực tiễn hoạt động tư pháp, chú trọng ứng dụng kết quả nghiên cứu vào các lĩnh vực công tác của Ngành.
- Tăng cường hợp tác quốc tế để tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho công tác nghiên cứu khoa học pháp lý.
8. Thực hiện các công tác tư pháp khác trong phạm vi chức năng, thẩm quyền của Bộ, ngành
a) Về công tác đăng ký giao dịch bảo đảm
- Tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo và nghiên cứu kiến nghị đưa Luật Đăng ký GDBĐ và Luật Đăng ký bất động sản vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2010.
- Nghiên cứu xây dựng các văn bản hướng dẫn về đăng ký giao dịch bảo đảm trực tuyến; sửa đổi văn bản liên tịch hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất cho phù hợp với thực tiễn và các quy định pháp luật mới;
- Xây dựng phần mềm quản lý, tra cứu và khai thác thông tin về văn bản thông báo tài sản kê biên để thực hiện thi hành án.
Các giải pháp chủ yếu:
- Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đăng ký, cung cấp thông tin cho khách hàng; xây dựng quy trình đăng ký thống nhất giữa các Trung tâm đăng ký, tăng cường và hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các Trung tâm đăng ký.
- Tăng cường kiểm tra hoạt động đăng ký GDBĐ ở địa phương; tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tổ chức một số lớp tập huấn về GDBĐ và đăng ký GDBĐ cũng như phát hành sách hướng dẫn nghiệp vụ về GDBĐ cho các tổ chức tín dụng và cá nhân tổ chức khác có nhu cầu tìm hiểu.
b) Về công tác kế hoạch, tài chính
- Đổi mới cơ bản công tác xây dựng kế hoạch và phân bổ ngân sách hàng năm của Bộ theo phương châm kế hoạch định hướng cho phân bổ ngân sách, ngân sách phải phục vụ việc thực hiện kế hoạch của Bộ, Ngành.
- Tích cực hơn nữa trong việc phối hợp với các đơn vị cũng như địa phương về xây dựng trụ sở làm việc, kho vật chứng cho cơ quan thi hành án dân sự địa phương.
- Triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm và công tác thống kê của ngành.
- Kiểm tra công tác quản lý tài chính, tài sản, kế toán nghiệp vụ thi hành án và tình hình đầu tư xây dựng cơ bản ở các đơn vị cơ sở; phối hợp với địa phương để hoàn thành việc kê khai cơ sở nhà đất theo Quyết định số 09/2008/QĐ-TTg ngày 11/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định nguyên tắc thiết kế và tiêu chuẩn sử dụng nhà ở công vụ.
- Đẩy mạnh việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kiên quyết chống tham nhũng.
Các giải pháp chủ yếu:
- Chủ động nắm bắt kế hoạch hoạt trong năm của các đơn vị và chương trình hành động trọng tâm của Ngành để đưa ra định hướng phân bổ ngân sách cho phù hợp, ưu tiên cao nhất cho việc hoàn thành các nhiệm vụ của Bộ, Ngành.
- Thông báo vốn đầu tư kịp thời ngay từ đầu năm, bảo đảm đủ định mức cho các đơn vị dự toán, các dự án. Theo dõi sát sao việc thực hiện kế hoạch ngân sách của các đơn vị để có những bổ sung, điều chỉnh kịp thời. Kiên quyết xử lý những đơn vị, cá nhân không thực hiện đúng kế hoạch ngân sách đã được phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật, kể cả yêu cầu phải xuất toán.
- Chủ động tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác kế hoạch - tài chính tại cơ quan tư pháp địa phương, nhất là trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng kế hoạch.
c) Về công tác thanh tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Xây dựng trụ sở tiếp dân và kiện toàn lại công tác tiếp dân tại các cơ quan tư pháp từ trung ương đến địa phương.
- Nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra, kiểm tra làm rõ và giải quyết dứt điểm một số vụ khiếu nại phức tạp, kéo dài, dư luận xã hội quan tâm. Hạn chế tối đa tình trạng khiếu nại, tố cáo vượt cấp, khiếu nại tố cáo lên các cơ quan Trung ương, gây mất ổn định chính trị, xã hội.
- Thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong các đơn vị thuộc Ngành.
Các giải pháp chủ yếu:
- Đẩy mạnh hoạt động thanh tra việc thực hiện chính sách pháp luật trong triển khai nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; tích cực đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận thanh tra.
- Tăng cường năng lực và đề cao trách nhiệm giải quyết dứt điểm khiếu nại, tố cáo ngay từ cấp cơ sở, các địa phương.
- Thực hiện đúng quy trình thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo.
- Thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ thanh tra cho đội ngũ cán bộ làm công tác này, cập nhật những kiến thức mới, nhất là kiến thức về những lĩnh vực chưa chuyên sâu như: xây dựng, tài chính...
d) Về công tác Văn phòng
- Thực hiện tốt chức năng tham mưu, tổng hợp, điều phối hoạt động của cơ quan, đơn vị, phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Bộ, lãnh đạo cơ quan, đơn vị.
- Tăng cường vai trò đầu mối của các tổ chức Văn phòng, chú trọng công tác tham mưu trong triển khai nhiệm vụ của toàn Ngành. Xây dựng văn hóa làm việc, văn hóa phục vụ của Văn phòng theo phương châm: Chuyên nghiệp - Hiện đại - Thân thiện.
Các giải pháp chủ yếu:
- Tiếp tục kiện toàn và tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác văn phòng, nhất là Văn phòng các Sở Tư pháp và Phòng Tổ chức - Hành chính của THADS cấp tỉnh.
- Sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ giữa các đơn vị trong Văn phòng, tránh sự trùng lặp, chồng chéo.
- Quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, công chức, viên chức của Văn phòng để có điều kiện hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao.
- Tăng cường công tác bồi dưỡng nghiệp vụ văn phòng cho đội ngũ làm công tác này, nhất là nghiệp vụ tham mưu, tổng hợp, nghiệp vụ văn bản, nghiệp vụ tin học... Tăng cường khảo sát thực tế, nắm tình hình để nâng cao kiến thức thực tiễn cho cán bộ, công chức, viên chức của Văn phòng.
- Tăng cường quan hệ giao lưu, hợp tác giữa Văn phòng với các đơn vị khác trong Bộ, trong Ngành và với các Bộ, ngành khác để nắm bắt tình hình, phục vụ việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng.
9. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong các lĩnh vực hoạt động của ngành
- Kịp thời rà soát, cập nhật nội dung về hướng dẫn nghiệp vụ, thủ tục hành chính, các mẫu biểu... để công khai hóa trên Cổng thông tin điện tử của Bộ, các trang thông tin của địa phương, bảo đảm sự thuận tiện, giảm thiểu phiền hà cho người dân và doanh nghiệp.
- Chủ động ban hành theo thẩm quyền hoặc phối hợp ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện luật, pháp lệnh, nghị định về thể chế của Ngành, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, bất cập về thể chế, chính sách, tạo điều kiện để Ngành hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Thực hiện tốt các nhiệm vụ thuộc Kế hoạch cải cách hành chính, cải cách tư pháp của Bộ, Ngành, địa phương.
- Đẩy nhanh việc triển khai thực hiện hoạt động rà soát thủ tục hành chính, triển khai hoạt động của Đề án xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của cơ quan Bộ Tư pháp.
Các giải pháp chủ yếu:
- Tăng cường sự phối hợp, liên kết chặt chẽ trong việc triển khai các nhiệm vụ CCHC của Bộ và các địa phương; xây dựng mô hình và cơ chế phù hợp để chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong nội bộ Ngành.
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh về thủ tục hành chính của ngành Tư pháp.
- Tăng cường vai trò và hiệu quả hoạt động của Tổ công tác chuyên trách thực hiện Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính ở Bộ.
- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính.
- Có chính sách khen thưởng, khuyến khích hợp lý và kịp thời các cá nhân, đơn vị triển khai nhiệm vụ cải cách hành chính có hiệu quả.
- Tăng cường bổ sung nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đầu tư cơ sở vật chất...
10. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong phạm vi Bộ, Ngành
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo điều hành công tác của Bộ, Ngành phải đúng hướng, kịp thời, kiên quyết; bám sát vào các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và chương trình - kế hoạch xây dựng pháp luật của Quốc hội, Chính phủ, gắn kết hoạt động của Bộ, Ngành vào việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, chương trình đó.
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra phải bám sát thực tiễn cuộc sống, phát hiện, giải quyết và tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc, bất cập, yếu kém trong hoạt động của Bộ, Ngành, đặc biệt là của các cơ quan Tư pháp và Thi hành án dân sự địa phương.
- Nghiên cứu xây dựng và triển khai thực hiện hiệu quả Quy chế tiếp nhận, xử lý, giải đáp các kiến nghị của địa phương.
- Kiện toàn tổ chức đơn vị làm đầu mối xây dựng chương trình, kế hoạch công tác của Bộ, Ngành, từng bước đưa công tác này vào nền nếp, chuyên nghiệp.
Các giải pháp chủ yếu:
- Xây dựng chương trình công tác cụ thể, sát với chương trình trọng tâm của địa phương và của Ngành.
- Lãnh đạo Bộ, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong Ngành tiếp tục chỉ đạo sát sao, kịp thời việc thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị; khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại sự chỉ đạo của cấp trên trong triển khai thực hiện nhiệm vụ.
- Tranh thủ hiệu quả sự lãnh đạo, chỉ đạo, quan tâm, giúp đỡ của cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác tư pháp.
- Tiếp tục chú trọng công tác phối hợp, tăng cường mối quan hệ trong công tác; hướng mạnh về cơ sở; thực hiện việc phân cấp mạnh cho các đơn vị, các cá nhân nhằm xác định cụ thể nhiệm vụ, nâng cao tinh thần trách nhiệm.
- Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo, thống kê; số liệu báo cáo phải đầy đủ, chính xác; nội dung báo cáo cần đi sâu phân tích, nhận định đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ, đề xuất được các giải pháp xác đáng.
- Tăng cường kỷ cương hành chính, kỷ luật lao động; phát huy tinh thần trách nhiệm của lãnh đạo các đơn vị trong việc duy trì kỷ cương, kỷ luật, đảm bảo chất lượng và tiến độ công việc;
- Duy trì chế độ giao ban công tác của Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo các đơn vị trong Ngành, đảm bảo thông tin thông suốt;
- Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành.
Năm mới đang mở ra cho đất nước ta, Ngành ta những thời cơ và thách thức mới. Hơn lúc nào hết, toàn thể cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp cần nỗ lực cố gắng thực hiện tốt phương châm "Đoàn kết, kỷ cương, trách nhiệm, đổi mới, phát triển” cùng các ngành, các cấp và cả nước thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 mà Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã đề ra.
Nơi nhận: | BỘ TRƯỞNG |
[1] Tính đến ngày 31/8/2008, đã xây dựng xong 693 trụ sở cơ quan thi hành án (tăng 20 trụ sở so với năm 2007), đang triển khai xây dựng tiếp 50 trụ sở. Kho vật chứng đang được tiến hành xây dựng tại 60 đơn vị (14 Thi hành án dân sự cấp tỉnh và 46 Thi hành án dân sự cấp huyện, tăng 47 đơn vị so với năm 2007).
[2] Tính đến 20/12/2008, đã có 60/61 Đoàn luật sư tổ chức thành công đại hội (đạt 98,3% kế hoạch).
[3] Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 23/6/2008 phê duyệt Đề án “Quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008-2010, định hướng đến năm 2015”; Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008 về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam; Thông tư liên tịch số 81/2008/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn về lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan TGPL nhà nước; Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-BTP-TWHCCBVN ngày 09/6/2008 hướng dẫn xây dựng văn bản QPPL, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, TGPL đối với Cựu chiến binh; Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT-BTP-BNV ngày 07/11/2008 về tổ chức biên chế của Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm; Thông tư số 05/2008/TT-BTP ngày 23/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về hoạt động nghiệp vụ TGPL và công tác quản lý nhà nước về TGPL; Thông tư số 07/2008/TT-BTP ngày 21/10/2008 hướng dẫn về thực hiện chính sách TGPL trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và Chương trình 135 giai đoạn II; Quyết định số 02/2008/QĐ-BTP ngày 28/02/2008 ban hành Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước; Quyết định số 03/2008/QĐ-BTP ngày 28/02/2008 ban hành Điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của Câu lạc bộ TGPL; Quyết định số 05/2008/QĐ-BTP ngày 13/5/2008 ban hành Quy chế Cộng tác viên TGPL; Quyết định số 259/QĐ-BTP ngày 07/3/2008 về việc thành lập Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng ở TW và Tổ giúp việc cho Hội đồng.
[4] Tham gia chuẩn bị nội dung và tổ chức chuyến thăm Singapore của Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng; tham gia Hội nghị lần thứ 4 Bộ trưởng Tư pháp các nước Pháp ngữ; tổ chức Diễn đàn pháp luật ASEAN lần thứ 4; tham gia Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp ASEAN lần thứ 7; tổ chức Phiên họp lần thứ 3 ”Tiểu ban hợp tác Việt Nam - EC về xây dựng thể chế, cải cách hành chính, quản trị và nhân quyền”; tham gia đàm phán Kế hoạch chung (One Plan) giữa Chính phủ và các tổ chức của Liên hiệp quốc...
[5] Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã có các buổi làm việc với Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo TANDTC, Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo VKSNDTC. Tại các buổi làm việc, Ban Cán sự Đảng và Lãnh đạo các ngành đã đánh giá cao sáng kiến của Bộ Tư pháp về họp liên tịch giữa các Ngành; thống nhất về sự cần thiết và quyết tâm tăng cường phối hợp công tác trong thời gian tới.
- 1Nghị định 67/2005/NĐ-CP Hướng dẫn Pháp lệnh Giám định tư pháp
- 2Luật Nhà ở 2005
- 3Luật trợ giúp pháp lý 2006
- 4Nghị định 69/2006/NĐ-CP sửa đổi nghị định 68/2002/NĐ-CP Hướng dẫn Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
- 5Chỉ thị 35/2006/CT-TTg thi hành Luật Trợ giúp pháp lý do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 6Luật Công chứng 2006
- 7Nghị định 07/2007/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Trợ giúp pháp lý
- 8Quyết định 30/QĐ-TTg năm 2007 Phê duyệt Đề án Đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 - 2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 9Thông tư liên tịch 04/2005/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương do Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ ban hành
- 10Nghị định 79/2007/NĐ-CP về việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký
- 11Quyết định 1067/1998/QĐ-TTg phê duyệt Dự án xây dựng và quản lý tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 12Nghị định 103/1998/NĐ-CP về việc quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật
- 13Nghị định 62/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp
- 14Luật Đất đai 2003
- 15Nghị định 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản
- 16Nghị quyết số 48-NQ/TW về việc chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 do Bộ Chính trị ban hành
- 17Luật tương trợ tư pháp 2007
- 18Nghị định 02/2008/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Công chứng
- 19Quyết định 09/2008/QĐ-TTg quy định nguyên tắc thiết kế và tiêu chuẩn sử dụng nhà ở công vụ do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 20Quyết định 49/QĐ-BTP năm 2008 về chương trình công tác trọng tâm của ngành Tư pháp năm 2008 do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 21Thông tư liên tịch 19/2008/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản do Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp ban hành
- 22Quyết định 43/2008/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước năm 2008 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 23Thông tư 01/2008/TT-BTP hướng dẫn thực hiện Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch do Bộ Tư pháp ban hành
- 24Quyết định 792/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Quy hoạch mạng lưới Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008 – 2010, định hướng đến năm 2015 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 25Chỉ thị 21/2008/CT-TTg về việc tiếp tục tăng cường và và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 26Nghị định 78/2008/NĐ-CP về việc quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật
- 27Nghị định 77/2008/NĐ-CP về việc tư vấn pháp luật
- 28Nghị định 93/2008/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp
- 29Thông tư 03/2008/TT-BTP hướng dẫn thi hành Nghị định 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký do Bộ Tư pháp ban hành
- 30Chỉ thị 32-CT/TW năm 2003 về tăng cường sự lãnh đạo của đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân do Ban Bí thư ban hành
- 31Quyết định 1254/QĐ-TTg năm 2008 về bổ nhiệm bà Nguyễn Thúy Hiền giữ chức Thứ trưởng Bộ Tư pháp do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 32Quyết định 1256/QĐ-TTg năm 2008 bổ nhiệm ông Nguyễn Đức Chính giữ chức Thứ trưởng Bộ Tư pháp do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 33Quyết định 1934/QĐ-BTP năm 2008 về việc phân công công tác của Bộ trưởng và các Thứ trưởng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
- 34Thông tư liên tịch 91/2008/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng do Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp ban hành
- 35Thông tư liên tịch 92/2008/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực do Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính ban hành
- 36Thông tư liên tịch 08/2008/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn tổ chức và biên chế của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước do Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ ban hành
- 37Luật thi hành án dân sự 2008
- 38Luật Quốc tịch Việt Nam 2008
- 39Chỉ thị 34/2008/CT-TTg về tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 40Quyết định 1579/QĐ-BTTTT năm 2008 về việc phê duyệt kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2009 – 2010 của Bộ Tư pháp do Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành
- 41Kế hoạch 6243/KH-BTP về tổ chức tổng kết công tác tư pháp năm 2011 và triển khai công tác tư pháp năm 2012 do Bộ Tư pháp ban hành
- 42Báo cáo 3965/BC-BNN-PC công tác tư pháp năm 2013 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2014 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành
Báo cáo 04/BC-BTP về tổng kết công tác tư pháp năm 2008 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2009 do Bộ Tư pháp ban hành
- Số hiệu: 04/BC-BTP
- Loại văn bản: Văn bản khác
- Ngày ban hành: 09/01/2009
- Nơi ban hành: Bộ Tư pháp
- Người ký: Hà Hùng Cường
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Dữ liệu đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 09/01/2009
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định