Bản án số 77/2022/DS-ST ngày 28/09/2022 của TAND huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số bản án: 77/2022/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 28/09/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Ngày 20 tháng 8 năm 2020, Ngân hàng thương mại cổ phần Đ Việt Nam (Gọi tắt là Ngân hàng) cho ông Hồ D, bà Ngân Thị N (Ông D, bà N) vay 250.000.000đ (Hai trăm năm mươi triệu đồng). Lãi suất: 11,2%/ năm và được điều chỉnh khi có sự thay đổi lãi suất của BIDV; lãi suất quá hạn: 150% lãi suất cho vay trong hạn; Lãi suất chậm trả đối với lãi: 10%/năm. Thời hạn vay: 11 tháng.
Cũng trong ngày 20 tháng 8 năm 2020, Ngân hàng tiếp tục cho D, bà N vay thêm 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng). Lãi suất: 10,6%/năm và được điều chỉnh khi có sự thay đổi lãi suất của BIDV; lãi suất quá hạn: 150% lãi suất cho vay trong hạn; Lãi suất chậm trả đối với lãi: 10%/năm. Thời hạn vay: 11 tháng, kể từ ngày ký hợp đồng.
Hình thức vay của cả hai hợp đồng là có bảo đảm bằng giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, theo Hợp đồng tín dụng số 01/2020/1299.6379/ HĐTD ngày 20 tháng 8 năm 2020 (Gọi tắt là Hợp đồng số 01), thì ông D, bà N mới trả cho Ngân hàng được 14.290.225đ tiền lãi, gốc chưa trả. Theo Hợp đồng tín dụng số 02/2020/1299.6379/HĐTD ngày 20 tháng 8 năm 2020 (Gọi tắt là Hợp đồng số 02), thì ông D, bà N mới trả cho Ngân hàng được 21.719.780đ tiền lãi, gốc chưa trả.
Tính đến ngày 28 tháng 9 năm 2022, ông D, bà N còn nợ Ngân hàng tổng số tiền theo hai hợp đồng là 763.997.542đ [Trong đó: Hợp đồng số 01 còn nợ: 295.340.254đ (Gốc: 250.000.000đ, lãi suất trong hạn: 38.049.315đ, lãi quá hạn: 5.331.507đ, lãi chậm trả: 1.959.432đ); Hợp đồng số 02 còn nợ: 468.657.288đ (Gốc: 400.000.000đ; lãi suất trong hạn: 57.617.534đ, lãi quá hạn: 8.073.425đ, lãi chậm trả: 2.966.329đ)] .
Mặc dù đã quá hạn trả nợ nhưng ông D, bà N không thanh toán, do đó Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông D, bà N trả số tiền tạm tính đến 28 tháng 9 năm 2022 là 763.997.542đ và yêu cầu trả lãi suất phát sinh theo các hợp đồng, kể từ ngày 28 tháng 9 năm 2022 cho đến khi trả xong nợ.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 77/2022/DS-ST ngày 28/09/2022 của TAND huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số bản án: 77/2022/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 28/09/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Ngày 20 tháng 8 năm 2020, Ngân hàng thương mại cổ phần Đ Việt Nam (Gọi tắt là Ngân hàng) cho ông Hồ D, bà Ngân Thị N (Ông D, bà N) vay 250.000.000đ (Hai trăm năm mươi triệu đồng). Lãi suất: 11,2%/ năm và được điều chỉnh khi có sự thay đổi lãi suất của BIDV; lãi suất quá hạn: 150% lãi suất cho vay trong hạn; Lãi suất chậm trả đối với lãi: 10%/năm. Thời hạn vay: 11 tháng.
Cũng trong ngày 20 tháng 8 năm 2020, Ngân hàng tiếp tục cho D, bà N vay thêm 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng). Lãi suất: 10,6%/năm và được điều chỉnh khi có sự thay đổi lãi suất của BIDV; lãi suất quá hạn: 150% lãi suất cho vay trong hạn; Lãi suất chậm trả đối với lãi: 10%/năm. Thời hạn vay: 11 tháng, kể từ ngày ký hợp đồng.
Hình thức vay của cả hai hợp đồng là có bảo đảm bằng giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, theo Hợp đồng tín dụng số 01/2020/1299.6379/ HĐTD ngày 20 tháng 8 năm 2020 (Gọi tắt là Hợp đồng số 01), thì ông D, bà N mới trả cho Ngân hàng được 14.290.225đ tiền lãi, gốc chưa trả. Theo Hợp đồng tín dụng số 02/2020/1299.6379/HĐTD ngày 20 tháng 8 năm 2020 (Gọi tắt là Hợp đồng số 02), thì ông D, bà N mới trả cho Ngân hàng được 21.719.780đ tiền lãi, gốc chưa trả.
Tính đến ngày 28 tháng 9 năm 2022, ông D, bà N còn nợ Ngân hàng tổng số tiền theo hai hợp đồng là 763.997.542đ [Trong đó: Hợp đồng số 01 còn nợ: 295.340.254đ (Gốc: 250.000.000đ, lãi suất trong hạn: 38.049.315đ, lãi quá hạn: 5.331.507đ, lãi chậm trả: 1.959.432đ); Hợp đồng số 02 còn nợ: 468.657.288đ (Gốc: 400.000.000đ; lãi suất trong hạn: 57.617.534đ, lãi quá hạn: 8.073.425đ, lãi chậm trả: 2.966.329đ)] .
Mặc dù đã quá hạn trả nợ nhưng ông D, bà N không thanh toán, do đó Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông D, bà N trả số tiền tạm tính đến 28 tháng 9 năm 2022 là 763.997.542đ và yêu cầu trả lãi suất phát sinh theo các hợp đồng, kể từ ngày 28 tháng 9 năm 2022 cho đến khi trả xong nợ.