Bản án số 485/2022/DSPT ngày 19/08/2022 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số bản án: 485/2022/DSPT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 19/08/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: 1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn – ông Nguyễn Văn M và bà Phan Thị Y, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 132/2022/DS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
1.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Nguyễn Văn M và bà Phan Thị Y.
Buộc bà Phan Thị V và các con là ông Trần Văn H, bà Phan Thị Ngọc P, ông Nguyễn Duy B, ông Nguyễn Q, ông Nguyễn Duy K, bà Nguyễn Thị Ngọc H1, ông Trần Trọng N, bà Tô Thanh T và bà Trần Thị Trà M phải giao trả cho ông Nguyễn Văn M và bà Phan Thị Y quyền sử dụng đất có diện tích 447,8m2 thuộc thửa số 752, tờ bản đồ số 17 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BN140104, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH01269 ngày 23/11/2012 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Văn M để ông M và bà Y quản lý sử dụng. Giao kèm theo trên quyền sử dụng đất diện tích 447,8m2 các công trình kiến trúc sau: 01 căn nhà (bao gồm tiệm tạp hóa và nhà chính) có diện tích 166,5m2 có kết cấu mái lợp tole, có la phông, tường gạch xây tô, nền gạch ceramic; 01 căn nhà (dạng phòng xây nối thêm sau tiệm tạp hóa và căn nhà chính) có diện tích 49m2 có kết cấu mái lợp tole, có la phông, tường gạch bên ngoài xây không tô, tường gạch bên trong xây tô, nền gạch ceramic; 06 hồ nuôi ếch có kết cấu tường gạch xây không tô, nền xi măng; 01 bếp ăn tạm có kết cấu tường gạch xây không tô, nền xi măng; 01 nhà tắm có kết cấu tường gạch xây không tô, nền xi măng.
1.2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là bà Phan Thị V.
Buộc ông Nguyễn Văn M và bà Phan Thị Y có trách nhiệm bồi hoàn cho bà Phan Thị V giá trị căn nhà chính (số nhà 64) có diện tích 142,5m2 là 315.210.000 (ba trăm mười lăm triệu hai trăm mười ngàn) đồng và giá trị phần đất ở có diện tích 96,9m2 là 581.400.000 (năm trăm tám mươi mốt triệu bốn trăm ngàn) đồng, tổng số tiền ông M và bà Y phải bồi hoàn là 896.610.000 (tám trăm chín mươi sáu triệu sáu trăm mười ngàn) đồng.
Kể từ ngày bà V có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông M và bà Y chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại Khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 485/2022/DSPT ngày 19/08/2022 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số bản án: 485/2022/DSPT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 19/08/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: 1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn – ông Nguyễn Văn M và bà Phan Thị Y, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 132/2022/DS-ST ngày 19 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
1.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Nguyễn Văn M và bà Phan Thị Y.
Buộc bà Phan Thị V và các con là ông Trần Văn H, bà Phan Thị Ngọc P, ông Nguyễn Duy B, ông Nguyễn Q, ông Nguyễn Duy K, bà Nguyễn Thị Ngọc H1, ông Trần Trọng N, bà Tô Thanh T và bà Trần Thị Trà M phải giao trả cho ông Nguyễn Văn M và bà Phan Thị Y quyền sử dụng đất có diện tích 447,8m2 thuộc thửa số 752, tờ bản đồ số 17 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BN140104, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH01269 ngày 23/11/2012 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Văn M để ông M và bà Y quản lý sử dụng. Giao kèm theo trên quyền sử dụng đất diện tích 447,8m2 các công trình kiến trúc sau: 01 căn nhà (bao gồm tiệm tạp hóa và nhà chính) có diện tích 166,5m2 có kết cấu mái lợp tole, có la phông, tường gạch xây tô, nền gạch ceramic; 01 căn nhà (dạng phòng xây nối thêm sau tiệm tạp hóa và căn nhà chính) có diện tích 49m2 có kết cấu mái lợp tole, có la phông, tường gạch bên ngoài xây không tô, tường gạch bên trong xây tô, nền gạch ceramic; 06 hồ nuôi ếch có kết cấu tường gạch xây không tô, nền xi măng; 01 bếp ăn tạm có kết cấu tường gạch xây không tô, nền xi măng; 01 nhà tắm có kết cấu tường gạch xây không tô, nền xi măng.
1.2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là bà Phan Thị V.
Buộc ông Nguyễn Văn M và bà Phan Thị Y có trách nhiệm bồi hoàn cho bà Phan Thị V giá trị căn nhà chính (số nhà 64) có diện tích 142,5m2 là 315.210.000 (ba trăm mười lăm triệu hai trăm mười ngàn) đồng và giá trị phần đất ở có diện tích 96,9m2 là 581.400.000 (năm trăm tám mươi mốt triệu bốn trăm ngàn) đồng, tổng số tiền ông M và bà Y phải bồi hoàn là 896.610.000 (tám trăm chín mươi sáu triệu sáu trăm mười ngàn) đồng.
Kể từ ngày bà V có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông M và bà Y chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại Khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.