Hệ thống pháp luật

TUYÊN BỐ

CỦA HỘI NGHỊ BỘ TRƯỞNG

1.Hệ thống thương mại đa phương thể hiện trong Tổ chức Thương mại Thế giới đã góp phần quan trọng vào quá trình tăng trưởng kinh tế, phát triển và lao động trong suốt năm mươi năm qua. Chúng tôi quyết tâm, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang suy giảm, duy trì quá trình cải cách và tự do hoá chính sách thương mại và nhờ đó bảo đảm rằng hệ thống này sẽ phát huy tối đa vai trò của mình trong việc thúc đẩy quá trình khôi phục, tăng trưởng và phát triển. Chính vì vậy, chúng tôi khẳng định lại một cách mạnh mẽ những nguyên tắc và mục tiêu của được đề ra trong Hiệp định Marrakesh về Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới, và cam kết bãi bỏ việc áp dụng chủ nghĩa bảo hộ.

2.Thương mại quốc tế có thể đóng một vai trò chủ yếu trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và giảm nghèo. Chúng tôi nhận thức rõ đòi hỏi của tất cả các dân tộc về lợi ích thu được từ những cơ hội và phúc lợi xã hội ngày càng nhiều do hệ thống thương mại đa phương đem lại. Đa số các nước thành viên của WTO là các nước đang phát triển. Chúng tôi phải tìm cách để đưa những yêu cầu và lợi ích của những nước này vào trọng tâm của Chương trình Công tác đã được thông qua trong tuyên bố này. Vừa gợi lại Lời nói đầu của Hiệp định Marrakesh, chúng tôi sẽ vừa tiếp tục thực hiện những nỗ lực tích cực nhằm đảm bảo rằng các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước kém phát triển nhất, có phần tham gia của họ vào quá trình tăng trưởng thương mại thế giới tương xứng với những yêu cầu phát triển kinh tế của những nước này. Trong bối cảnh đó, quá trình tăng cường tiếp cận thị trường, cân bằng các định chế cùng với các chương trình nâng cao năng lực và trợ giúp kỹ thuật được định hướng tốt, tài trợ ổn định sẽ đóng những vai trò rất quan trọng .

3.Chúng tôi nhận thức rõ về tình trạng đặc biệt dễ tổn thương của các nước kém phát triển nhất và những khó khăn về mặt cơ cấu đặc thù mà các nước này phải đối mặt trong nền kinh tế toàn cầu. Chúng tôi cam kết giải quyết vấn đề khoảng cách tụt hậu của các nước kém phát triển nhất trong thương mại quốc tế và nâng cao khả năng tham gia có hiệu quả của những nước đó trong hệ thống thương mại đa phương. Chúng tôi cùng nhớ lại các cam kết được các vị Bộ trưởng đưa ra trong các cuộc họp tại Marrakesh, Singapore và Geneva và các cam kết của cộng đồng quốc tế được đề cập tại Hội nghị lần thứ Ba của Liên hợp quốc về các nước kém phát triển nhất tại Brussels để giúp đỡ các quốc gia này hội nhập hiệu quả và có lợi vào hệ thống thương mại quốc tế và nền kinh tế toàn cầu. Chúng tôi quyết tâm rằng WTO sẽ đóng vai trò của mình trong việc xây dựng những cam kết này một cách có hiệu quả theo Chương trình Công tác mà chúng tôi đang xây dựng.

4.Chúng tôi nhấn mạnh cam kết của chúng tôi đối với WTO với tư cách là một diễn đàn duy nhất cho việc tự do hoá và quyết định những định chế thương mại toàn cầu trong khi cũng nhận thức rõ rằng các thoả thuận thương mại khu vực có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình tự do hoá và mở rộng thương mại và trong việc đẩy mạnh quá trình phát triển.

5.Chúng tôi nhận thức được rằng những thách thức mà các nước thành viên WTO đang phải đối mặt trong một môi trường quốc tế đang thay đổi nhanh chóng không thể giải quyết được bằng những biện pháp mà chỉ được áp dụng trong lĩnh vực thương mại. Chúng tôi sẽ tiếp tục sử dụng các thể chế thuộc hệ thống Bretton Woods nhằm tạo ra sự gắn kết chặt chẽ hơn trong qúa trình hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu.

6.Chúng tôi xin khẳng định mạnh mẽ cam kết của chúng tôi đối với mục tiêu phát triển bền vững, như đã được nêu ra trong Lời nói đầu của Hiệp định Marrakesh. Chúng tôi tin tưởng rằng những mục đích nhằm duy trì và bảo vệ một hệ thống thương mại đa phương không phân biệt đối xử và rộng mở, và hành động nhằm bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững có thể và phải được các nước ủng hộ. Chúng tôi ghi nhận những nỗ lực của các nước thành viên trong việc tiến hành đánh giá trên cơ sở tự nguyện tác động về mặt môi trường quốc gia của những chính sách thương mại. Chúng tôi công nhận rằng theo quy định của WTO các quốc gia thành viên đều có quyền áp dụng các biện pháp nhằm bảo vệ sức khoẻ con người, động vật hay thực vật, hoặc môi trường ở mức độ mà họ cho là thích hợp, họ cũng không phải chấp nhận những yêu cầu, điều kiện được áp dụng theo cách mà chúng có thể được sử dụng như một phương tiện độc đoán và phân biệt đối xử vô lý giữa các quốc gia nơi mà những điều kiện như vậy được áp dụng rộng rãi, hay như một hạn chế thương mại quốc tế trá hình và mặt khác lại làm cho chúng phù hợp với các điều khoản của Hiệp định WTO. Chúng tôi hoan nghênh sự hợp tác liên tục của WTO với UNEP và các tổ chức môi trường liên chính phủ khác. Chúng tôi hoan nghênh những nỗ lực nhằm thúc đẩy hợp tác giữa WTO và các tổ chức phát triển và môi trường quốc tế liên quan, đặc biệt trong việc chuẩn bị cho Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển Bền vững sẽ được tổ chức tại Johannesburg, Nam Phi vào tháng 9/2002.

7.Chúng tôi xin khẳng định lại quyền của các quốc gia thành viên WTO như được quy định trong Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ trong việc điều hành và áp dụng những quy định mới về việc cung cấp dịch vụ.

8.Chúng tôi xin khẳng định lại tuyên bố của chúng tôi đưa ra tại Hội nghị Bộ trưởng tại Singapore về các tiêu chuẩn lao động chính được quốc tế công nhận. Chúng tôi ghi nhận những công việc đang được triển khai trong Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về quy mô toàn cầu hoá xã hội. ILO đưa ra một diễn đàn đối thoại thực sự thích hợp về các lĩnh vực khác nhau của vấn đề này.

9.Chúng tôi rất hài lòng ghi nhận rằng Hội nghị này hoàn tất các thủ tục gia nhập WTO cho Trung quốc và Đài loan. Chúng tôi cũng hoan nghênh sự tham gia của các thành viên mới, kể từ phiên họp trước, như Albania, Croatia, Grudia, Jordan, Latvia, Moldova và Oman, và ghi nhận những cam kết tiếp cận thị trường trên phạm vi mở rộng đã được các nước này đưa ra khi gia nhập. Sự gia nhập của những nước này sẽ củng cố mạnh mẽ hệ thống thương mại đa phương khi những nước trong số 28 nước hiện nay đang tiến hành đàm phán gia nhập WTO. Do đó, chúng tôi hết sức quan tâm đến việc hoàn thành các thủ tục gia nhập trong thời gian sớm nhất. Đặc biệt, chúng tôi cam kết đẩy nhanh việc gia nhập của các nước kém phát triển nhất.

10.Nhận thức rõ các thách thức đặt ra khi mở rộng quy chế thành viên của WTO, chúng tôi khẳng định trách nhiệm tập thể của chúng tôi nhằm bảo đảm sự minh bạch trong nước và sự tham gia có hiệu quả của tất cả các thành viên. Nhấn mạnh tính chất liên chính phủ của tổ chức này, chúng tôi cam kết sẽ làm cho các hoạt động của WTO minh bạch hơn, kể cả việc thông qua việc quảng bá thông tin có hiệu quả và tăng cường đối thoại với công chúng. Do đó, chúng tôi sẽ tiếp tục tăng cường ở cấp độ quốc gia và đa phương việc hiểu biết tốt hơn trong công chúng về WTO và phổ biến về lợi ích của một hệ thống thương mại đa phương tự do, hoạt động dựa trên cơ sở các định chế.

11.Khi xem xét các vấn đề này, chúng tôi đều nhất trí ở đây rằng sẽ thực hiện Chương trình Công tác rộng rãi và đồng đều như được đề ra dưới đây. Việc này sẽ kết hợp cả chương trình đàm phán mở rộng và các quyết định quan trọng khác với những hoạt động cần thiết để giải quyết những thách thức đang đặt ra trong hệ thống thương mại đa phương.

CÁC VẤN ĐỀ VÀ MỐI QUAN TÂM LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN

12.Chúng tôi coi các vấn đề và mối quan tâm liên quan đến việc thực hiện do các nước thành viên nêu ra có một tầm quan trọng đặc biệt và quyết định tìm giải pháp thích hợp cho các vấn đề này. Do đó, sau khi tính đến Quyết định của Đại Hội đồng ngày 3/5 và 15/12/2000, chúng tôi thông qua Quyết định về Các vấn đề và Mối quan tâm liên quan đến việc Thực hiện trong tài liệu Job(01)/139/Rev.1 để xử lý một số vấn đề mà các nước thành viên gặp phải. Chúng tôi nhất trí rằng việc đàm phán các vấn đề còn tồn đọng sẽ là một phần không tách rời của Chương trình Công tác mà chúng tôi lập ra, và các hiệp định đạt được trong giai đoạn đầu của quá trình đàm phán sẽ được xử lý phù hợp với các điều khoản tại khoản 47 dưới đây. Vì thế, chúng tôi sẽ tiến hành như sau: (a) nếu trong Tuyên bố này có yêu cầu về việc đàm phán thì các vấn đề về thực hiện sẽ được giải quyết theo yêu cầu đó; (b) các vấn đề thực hiện khác còn lại sẽ được các cơ quan chuyên môn của WTO coi là một vấn đề ưu tiên và sẽ báo cáo trước cuối năm 2002 lên Uỷ ban Đàm phán Thương mại được thành lập tại khoản 39 dưới đây.

NÔNG NGHIỆP

13.Chúng tôi công nhận những công việc đã tiến hành trong tiến trình đàm phán bắt đầu từ đầu năm 2000 theo Điều 20 của Hiệp định Nông nghiệp, kể cả một số lớn các đề nghị đàm phán do 121 nước thành viên đưa ra. Chúng tôi xin nhắc lại mục tiêu lâu dài nêu trong Hiệp định nhằm thành lập một hệ thống thương mại công bằng và có định hướng thị trường thông qua một chương trình cải cách cơ bản bao gồm các quy định đã được cải tiến và các cam kết cụ thể về hỗ trợ và bảo hộ nhằm chấn chỉnh và ngăn chặn những hạn chế và làm biến dạng thị trường nông sản thế giới. Chúng tôi tái xác nhận cam kết đối với chương trình này. Dựa trên công việc đã tiến hành cho đến nay và không vội vã đánh giá kết quả của các cuộc đàm phán, chúng tôi cam kết đàm phán toàn diện nhằm: cải tiến đáng kể về mở cửa thị trường; giảm và nhằm loại bỏ dần mọi dạng trợ cấp xuất khẩu; giảm đáng kể các hỗ trợ trong nước gây biến dạng thương mại. Chúng tôi nhất trí việc đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước đang phát triển sẽ là một phần không thể tách rời của mọi quá trình đàm phán và sẽ được tổng hợp vào Lịch trình Ưu đãi và Cam kết và ở mức độ thích hợp, có thể sẽ được đưa vào các quy định và nguyên tắc chuẩn bị được thương thảo để có thể có hiệu lực thi hành và cho phép các nước đang phát triển đáp ứng thích đáng nhu cầu phát triển, kể cả an ninh lương thực và phát triển nông thôn. Chúng tôi ghi nhận những mối lo ngại phi thương mại được thể hiện trong những đề xuất đàm phán do các nước thành viên đệ trình và khẳng định những mối quan ngại đó sẽ được tính đến trong quá trình đàm phán như đã nêu trong Hiệp định Nông nghiệp.

14.Thể thức của các cam kết tiếp theo, kể cả quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt, sẽ được đưa ra không muộn hơn 31/3/2003. Các nước tham gia sẽ gửi dự thảo Lịch trình chi tiết dựa trên thể thức này không muộn hơn ngày diễn ra Phiên họp thứ Năm của Hội nghị Bộ trưởng. Quá trình đàm phán, kể cả đàm phán về các quy định liên quan đến các văn bản pháp lý, sẽ được hoàn tất một phần và toàn bộ sẽ được hoàn tất vào ngày hoàn thành chương trình đàm phán.

DỊCH VỤ

15.Đàm phán về thương mại dịch vụ sẽ được tiến hành nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tất cả các đối tác thương mại và nhằm phát triển các nước đang phát triển. Chúng tôi ghi nhận những công việc tại vòng đàm phán được khởi đầu từ tháng 1/2000 theo Điều XIX của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ, và một số lượng lớn các đề xuất do các nước thành viên trình lên về nhiều lĩnh vực và một số vấn đề chung, cũng như về sự di chuyển của thể nhân. Chúng tôi tái khẳng định Những quy tắc hướng dẫn và Thủ tục Đàm phán đã được Hội đồng Thương mại Dịch vụ thông qua ngày 28/3/2001 làm cơ sở để tiếp tục đàm phán nhằm đạt được các mục tiêu của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ như đã nêu trong Lời nói đầu, Điều IV và Điều XIX của Hiệp định.

Các nước tham gia sẽ gửi bản yêu cầu ban đầu về từng cam kết cụ thể trước ngày 3-/6/2002 và gửi bản chào ban đầu trước ngày 31/3/2003

MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG CHO CÁC SẢN PHẨM PHI NÔNG NGHIỆP

16.Chúng tôi nhất trí đàm phán theo thể thức đã nhất trí nhằm giảm hoặc nếu có thể thì loại bỏ hoàn toàn thuế quan, kể cả giảm hoặc bỏ các mức thuế quan trần, thuế quan cao và thuế leo thang, cũng như các hàng rào phi thuế, đặc biệt là đối với những sản phẩm có nhu cầu xuất khẩu đến các nước đang phát triển. Phạm vi sản phẩm cần phải toàn diện và không có ngoại lệ. Việc đàm phán sẽ tính đến các nhu cầu đặc biệt và quyền lợi của các nước đang phát triển và kém phát triển nhất tham gia, bao gồm cả việc đối xử có đi có lại ở mức độ cao hay thấp trong các cam kết về cắt giảm, phù hợp với các quy định tương ứng của Điều XXVIII bis của GATT 1994 và các quy định nêu tại khoản 50 dưới đây. Với mục đích đó, các thể thức chuẩn bị được nhất trí sẽ bao gồm cả những nghiên cứu thích hợp và các biện pháp xây dựng năng lực nhằm giúp các nước kém phát triển nhất tham gia một cách hiệu quả và các cuộc đàm phán.

CÁC KHÍA CẠNH CỦA QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI

17.Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng dành cho việc thực hiện và thi hành Hiệp định về Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại (Hiệp định TRIPs) nhằm hỗ trợ công tác y tế bằng cách thúc đẩy việc tiếp cận với các loại thuốc hiện có và nghiên cứu và phát triển thành các loại thuốc mới và do vậy đã thông qua một Tuyên bố riêng.

18.Nhằm hoàn thành công việc đã bắt đầu tại Hội đồng về Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại (Hội đồng TRIPs) đối với việc thực hiện Điều 23.4, chúng tôi nhất trí đàm phán thiết lập một hệ thống đa phương thông báo và đăng ký chỉ dẫn địa lý của mặt hàng rượu tại Phiên họp 5 của Hội nghị Bộ trưởng. Chúng tôi ghi nhận rằng các vấn đề liên quan tới việc mở rộng sự bảo hộ chỉ dẫn địa lý được quy định trong Điều 23 liên quan đến các sản phẩm khác không kể rượu sẽ được giải quyết tại Hội đồng TRIPs theo khoản 12 của Tuyên bố này.

19.Chúng tôi chỉ thị cho Hội đồng TRIPs, trong khi thực hiện chương trình làm việc theo như việc rà soát Điều 27.3b bao gồm việc thực hiện Hiệp định TRIPs theo Điều 71.1 và những vấn đề dự kiến quy định trong khoản 12 của Tuyên bố phải xem xét, không kể những lĩnh vực khác, quan hệ giữa hiệp định TRIPs và Công ước về Đa dạng Sinh học, bảo vệ tri thức và truyền thống dân gian cũng như những diễn biến mới liên quan khác được các nước thành viên nêu ra theo Điều 71.1. Để thực hiện nhiệm vụ này, Hội đồng TRIPs sẽ được chỉ đạo với các mục tiêu và quy tắc quy định trong Điều 7 và 8 của Hiệp định TRIPs và cũng sẽ tính đến quy mô phát triển.

QUAN HỆ GIỮA THƯƠNG MẠI VÀ ĐẦU TƯ

20.Khi công nhận một khuôn khổ đa phương nhằm đảm bảo tính minh bạch, tính ổn định và tính dự báo cho hoạt động đầu tư nước ngoài dài hạn, đặc biệt là FDI và góp phần mở rộng thương mại, củng cố sự cần thiết phải tăng cường hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực trong lĩnh vực này như được thể hiện trong khoản 21, chúng tôi đều tán thành việc các cuộc đàm phán sẽ diễn ra sau Phiên họp thứ Năm của Hội nghị Bộ trưởng trên cơ sở quyết định sắp được đưa ra với sự nhất trí rõ ràng tại Phiên họp đó về thể thức đàm phán.

21.Chúng tôi công nhận những nhu cầu của các nước đang và chậm phát triển nhất đối với việc tăng cường hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực trong lĩnh vực này, bao gồm phân tích và phát triển chính sách để các nước này có thể đánh giá tốt hơn những tác động của quá trình hợp tác đa phương với mức độ chặt chẽ hơn đối với những chính sách và mục tiêu phát triển của họ và cũng như đối với việc phát triển con người và thể chế. Với mục tiêu này, chúng tôi sẽ làm việc trong tinh thần hợp tác với các tổ chức liên chính phủ liên quan khác, kể cả UNCTAD và thông qua các kênh hợp tác song phương và khu vực thích hợp tiến hành hỗ trợ nguồn lực một cách đầy đủ với mức độ được tăng cường để đáp ứng những nhu cầu này.

22.Trong thời gian từ nay cho đến Phiên họp thứ Năm, công việc trong Nhóm Công tác về Quan hệ giữa Đầu tư và Thương mại sẽ tập trung vào việc làm rõ các vấn đề: phạm vi và định nghĩa; minh bạch hóa; không phân biệt đối xử; các thể thức đối với các cam kết trước khi thành lập trên dựa trên cơ sở GATS, xem xét danh mục chuẩn; các điều khoản phát triển; các ngoại lệ và các biện pháp tự vệ trong cán cân thanh toán; tư vấn và giải quyết tranh chấp giữa các nước Thành viên. Bất cứ khuôn khổ nào cũng cần phải thể hiện một cách cân bằng lợi ích quốc gia với lợi ích của số đông các nước và chú trọng tới chính sách và mục tiêu phát triển của đa số các Chính phủ cũng như quyền điều hoà lợi ích chung của các Chính phủ này. Yêu cầu về tài chính, thương mại và phát triển đặc thù của các nước đang phát triển và kém phát triển nhất cũng phải được tính đến là một bộ phận cấu thành của khuôn khổ này. Điều đó làm tăng khả năng thực thi những nghĩa vụ và cam kết tương xứng với yêu cầu và hoàn cảnh cụ thể của mỗi thành viên. Các điều khoản liên quan khác của WTO cũng cần phải được xem xét một cách thích đáng. Cũng cần phải tính toán một cách thích hợp đến những thoả thuận đầu tư song phương và khu vực hiện có.

SỰ TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA THƯƠNG MẠI VÀ CHÍNH SÁCH CẠNH TRANH

23.Khi công nhận một khuôn khổ đa phương nhằm tăng cường khả năng đóng góp của chính sách cạnh tranh đối với thương mại quốc tế và phát triển, củng cố sự cần thiết phải tăng cường hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực trong lĩnh vực này như được thể hiện trong khoản 24, chúng tôi đều tán thành việc các cuộc đàm phán sẽ diễn ra sau Phiên họp thứ Năm của Hội nghị Bộ trưởng trên cơ sở quyết định sắp được đưa ra với sự nhất trí rõ ràng tại Phiên họp đó về thể thức đàm phán.

24.Chúng tôi công nhận những nhu cầu của các nước đang và chậm phát triển nhất đối với việc tăng cường hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực trong lĩnh vực này, bao gồm phân tích và phát triển chính sách để các nước này có thể đánh giá tốt hơn những tác động của quá trình hợp tác đa phương với mức độ chặt chẽ hơn đối với những chính sách và mục tiêu phát triển của họ và cũng như đối với việc phát triển con người và thể chế. Với mục tiêu này, chúng tôi sẽ làm việc trong tinh thần hợp tác với các tổ chức liên chính phủ liên quan khác, kể cả UNCTAD và thông qua các kênh hợp tác song phương và khu vực thích hợp tiến hành hỗ trợ nguồn lực một cách đầy đủ với mức độ được tăng cường để đáp ứng những nhu cầu này.

25.             Trong thời gian từ nay cho đến Phiên họp thứ Năm, công việc trong Nhóm Công tác về Sự Tác động qua lại giữa Thương mại và Chính sách Cạnh tranh sẽ tập trung vào việc làm rõ các vấn đề: các nguyên tắc chủ yếu, bao gồm minh bạch hóa; không phân biệt đối xử và công bắng trong các vấn đề thủ tục và các điều khoản của các thoả thuận; thể thức hợp tác tự nguyện, và hỗ trợ tăng cường củng cố các thể chế cạnh tranh ở các nước đang phát triển thông qua chương trình xây dựng năng lực. Cần phải tính toán một cách đầy đủ đến những nhu cầu của các nước đang phát triển và kém phát triển nhất và sự linh hoạt cần thiết để giải quyết những nhu cầu ấy.

MINH BẠCH HOÁ TRONG MUA SẮM CHÍNH PHỦ

26.Khi công nhận một hiệp định đa phương minh bạch hoá trong mua sắm Chính phủ và nhu cầu tăng cường hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực trong lĩnh vực này, chúng tôi đều tán thành việc các cuộc đàm phán sẽ diễn ra sau Phiên họp thứ Năm của Hội nghị Bộ trưởng trên cơ sở quyết định sắp được đưa ra với sự nhất trí rõ ràng tại Phiên họp đó về thể thức đàm phán. Những cuộc đàm phán này sẽ dựa trên tiến bộ đã đạt được trong Nhóm Công tác về Minh bạch hoá mua sắm Chính phủ vào thời gian trên và có tính đến quyền ưu tiên phát triển của các nước tham gia, đặc biệt là các nước kém phát triển nhất. Đàm phán chỉ hạn chế trong khía cạnh minh bạch hoá và do vậy sẽ không hạn chế phạm vi các nước dành ưu đãi cho việc cung cấp và những nhà cung cấp trong nước. Chúng tôi cam kết đảm bảo sự hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực cả trong quá trình đàm phán và sau khi đàm phán.

THUẬN LỢI HOÁ THƯƠNG MẠI

27.Với mục tiêu thúc đẩy hơn nữa sự di chuyển, giải phóng và thanh toán hàng hoá gồm hàng quá cảnh, nhu cầu tăng cường hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực trong lĩnh vực này, chúng tôi đều tán thành việc các cuộc đàm phán sẽ diễn ra sau Phiên họp thứ Năm của Hội nghị Bộ trưởng trên cơ sở quyết định sắp được đưa ra với sự nhất trí rõ ràng tại Phiên họp đó về thể thức đàm phán. Trong thời gian từ nay cho đến Phiên họp thứ Năm, Hội đồng về Thương mại Hàng hoá sẽ xem xét và có thể làm rõ và củng cố các khía cạnh liên quan của các Điều V, VIII và X của GATT 1994 và xác định các nhu cầu và ưu tiên liên quan đến thuận lợi hoá thương mại của các nước Thành viên, đặc biệt là các nước đang và kém phát triển nhất. Chúng tôi cam kết đảm bảo sự hỗ trợ đầy đủ về kỹ thuật và xây dựng năng lực trong lĩnh vực này.

CÁC QUY ĐỊNH CỦA WTO

28.Do các nước thành viên áp dụng các văn kiện này ngày càng tăng, chúng tôi đồng ý đàm phán nhằm mục đích làm rõ và hoàn thiện các nguyên tắc theo Hiệp định về Thực hiện Điều 6 GATT 1994 và về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng, trong khi vẫn bảo lưu các khái niệm và nguyên tắc cơ bản, đồng thời có tính đến nhu cầu của các bên tham gia là các nước đang phát triển hoặc kém phát triển nhất. Trong giai đoạn đầu của đàm phán, các bên tham gia sẽ nêu những điều khoản, bao gồm cả những nguyên tắc về thực tiễn bóp méo thương mại mà họ muốn làm rõ hoặc hoàn thiện trong giai đoạn tiếp theo. Trong phạm vi đàm phán này, các bên tham gia đồng thời cũng tập trung vào việc làm rõ và hoàn thiện các nguyên tắc của WTO về trợ cấp ngư nghiệp có tính đến tầm quan trọng của ngành này đối với các nước đang phát triển. Chúng tôi cũng lưu ý rằng trợ cấp ngư nghiệp cũng được nêu tại khoản 31 dưới đây.

29.Chúng tôi cũng đồng ý đàm phán nhằm mục đích làm sáng tỏ và hoàn thiện các nguyên tắc và thủ tục theo các điều khoản hiện hành của WTO áp dụng cho các hiệp định thương mại khu vực. Các cuộc đàm phán cần phải cần tính đến các khía cạnh phát triển của các hiệp định thương mại khu vực.

THOẢ THUẬN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

30. Chúng tôi tán thành đàm phán về hoàn thiện và làm rõ Thoả thuận giải quyết tranh chấp. Việc đàm phán sẽ phải dựa trên các công việc đã được thực hiện cũng như bất kỳ kiến nghị bổ sung nào bởi các nước thành viên, và nhằm mục đích thỏa thuận về hoàn thiện và làm rõ trước Tháng Năm 2003, vào thời điểm đó chúng tôi sẽ tiến hành các bước tiếp theo để đảm bảo rằng các kết quả được thực hiện sau đó càng sớm càng tốt.

31.Nhằm mục đích tăng cường sự hỗ trợ lẫn nhau giữa thương mại và môi trường, chúng tôi đồng ý đàm phán, không phụ thuộc vào kết quả đàm phán, về các vấn đề sau:

(i)         Mối quan hệ giữa các nguyên tắc hiện tại của WTO và các nghĩa vụ thương mại cụ thể nêu tại Hiệp định Đa biên về Môi trường (MEAs). Đàm phán sẽ giới hạn ở phạm vi áp dụng các nguyên tắc hiện tại đó của WTO giữa các thành viên đối với các vấn đề quan tâm của Hiệp định MEAs. Đàm phán sẽ không ảnh hưởng đến quyền thành viên WTO của bất kỳ thành viên nào không phải là bên ký kết của Hiệp định MEA.

(ii)         Các thủ tục trao đổi thông tin thông thường giữa Ban Thư ký MEA và các ủy ban của WTO, các tiêu chí cho việc trao tư cách quan sát viên.

(iii)        Cắt giảm và loại bỏ thuế quan và các hàng rào phi thuế quan đối với hàng hoá và dịch vụ môi trường, nếu phù hợp.

Chúng tôi ghi nhận rằng trợ cấp ngư nghiệp là một phần của các thoả thuận nêu tại Khoản 28.

THƯƠNG MẠI VÀ MÔI TRƯỜNG

32. Chúng tôi chỉ thị cho Uỷ ban về Thương mại và Môi trường thực hiện công tác theo các khoản mục trong chương trình nghị sự của Uỷ ban trong phạm vi các hệ số tham khảo, có chú ý đặc biệt đến:

(i)         tác động của các biện pháp môi trường đối với gia nhập thị trường và các trường hợp trong đó việc loại bỏ hoặc giảm bớt các hạn chế và bóp méo thương mại sẽ có lợi cho thương mại, môi trường và phát triển;

(ii)         các điều khoản tương ứng của Hiệp định về các phương diện liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs); và

(iii)        các yêu cầu về dán nhãn sản phẩm vì mục đích bảo vệ môi trường..

Công tác về các vấn đề này cần phải bao gồm cả việc xác định các yêu cầu làm rõ các quy định của WTO. Uỷ ban sẽ báo cáo tại phiên 5 Hội nghị Bộ trưởng và sẽ có các khuyến nghị thích hợp về các hành động trong tương lai, bao gồm cả các yêu cầu đàm phán. Kết quả của công việc này cũng như các thoả thuận nêu tại đoạn 31 (i) và (ii) sẽ phải tương thích với bản chất mở cửa và không phân biệt đối xử của hệ thống thương mại đa biên, không được thêm hoặc bớt đi các quyền và nghĩa vụ của các thành viên theo các hiệp định đang có hiệu lực của WTO, đặc biệt là Hiệp định về áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật, hay làm thay đổi sự cân bằng giữa các quyền và nghĩa vụ này, và đồng thời phải tính toán đến nhu cầu của các nước đang phát triển và các nước kém phát triển nhất

33.Chúng tôi công nhận tầm quan trọng của việc trợ giúp kỹ thuật và xây dựng năng lực trong lĩnh vực thương mại và môi trường đối với các nước đang phát triển, và các nước kém phát triển nhất trong số các nước đang phát triển. Chúng tôi khuyến khích sự trao đổi kinh nghiệm và chuyên môn giữa các nước thành viên mong muốn xem xét lại vấn đề môi trường ở cấp độ quốc gia. Báo các về các hoạt động này sẽ được soạn thảo để trình lên Phiên 5.

THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

34. Chúng tôi cũng ghi nhận các công việc đã và đang được thực hiện tại Đại Hội đồng và các cơ quan khác sau Tuyên bố Bộ trưởng ngày 20/5/1998 và đồng ý theo đuổi Chương trình làm việc về Thương mại điện tử. Công việc tiến hành cho đến nay chứng minh rằng thương mại điện tử tạo ra cả thách thức và cơ hội đối với thương mại cho các thành viên ở mọi giai đoạn phát triển, và chúng tôi thừa nhận tầm quan trọng của việc tạo dựng và duy trì một môi trường có lợi cho sự phát triển trong tương lai của thương mại điện tử. Chúng tôi yêu cầu Đại Hội đồng xem xét các hiệp định phù hợp nhất về mặt thể chế để đảm nhận chương trình làm việc, và để báo cáo các tiến trình tiếp theo tại Phiên họp 5 Hội nghị Bộ trưởng. Chúng tôi tuyên bố rằng các thành viên sẽ giữ nguyên thông lệ hiện hành không đánh thuế hải quan đối với truyền dẫn điện tử cho tới phiên họp 5.

CÁC NỀN KINH TẾ NHỎ

35. Chúng tôi tán thành chương trình công tác dưới sự bảo trợ của Đại Hội đồng nhằm kiểm tra các vấn đề liên quan đến thương mại của các nền kinh tế nhỏ. Mục đích của công tác này là xây dựng các câu trả lời cho các vấn đề liên quan đến thương mại đã được xác định cho việc hội nhập đầy đủ hơn các nền kinh tế nhỏ và yếu thành một hệ thống thương mại đa biên, và không tạo ra một phạm trù thứ cấp của các thành viên WTO. Đại Hội đồng sẽ rà soát lại chương trình công tác và có những đề xuất thích hợp đối với các hành động hướng tới Phiên họp 5 Hội nghị Bộ trưởng.

THƯƠNG MẠI, NỢ VÀ TÀI CHÍNH

36. Chúng tôi đồng ý xem xét thông qua Nhóm Công tác, dưới sự bảo trợ của Đại Hội đồng, các mối quan hệ giữa thương mại, nợ và tài chính, và mọi kiến nghị có thể về các bước tiếp theo có thể sẽ phải thực hiện trong phạm vi quyền hạn và thẩm quyền của WTO để nâng cao năng lực của hệ thống thương mại đa biên, góp phần vào việc giải quyết lâu dài vấn đề nợ nước ngoài của các nước các nước đang phát triển và kém phát triển nhất, và để tăng cường sự gắn bó chặt chẽ của thương mại quốc tế, các chính sách tài chính và tiền tệ nhằm mục đích bảo vệ hệ thống thương mại đa biên trước các tác động của sự mất ổn định tài chính và tiền tệ. Đại Hội đồng sẽ báo cáo cho phiên họp thứ 5 của Hội nghị Bộ trưởng về tiến trình kiểm tra.

THƯƠNG MẠI VÀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ

37. Chúng tôi đồng ý xem xét, thông qua Nhóm Công tác, dưới sự bảo trợ của Đại Hội đồng, mối quan hệ giữa thương mại và chuyển giao công nghệ và các kiến nghị có thể về các bước tiếp theo trong phạm vi quyền hạn của WTO nhằm tăng dòng chảy công nghệ đến các nước đang phát triển. Chúng tôi yêu cầu Đại Hội đồng xem xét các hiệp định về mặt thể chế. Đại Hội đồng sẽ báo cáo cho phiên họp 5 Hội nghị Bộ trưởng về tiến trình kiểm tra.

HỢP TÁC VỀ KỸ THUẬT VÀ XÂY DỰNG NĂNG LỰC

38. Chúng tôi khẳng định rằng hợp tác kỹ thuật và xây dựng năng lực là các yếu tố cốt lõi của sự phát triển hệ thống thương mại đa biên, chúng tôi hoan nghênh và ủng hộ Chiến lược mới về Hợp tác Kỹ thuật WTO trong việc Xây dựng Năng lực, Tăng trưởng và Hội nhập. Chúng tôi chỉ thị cho Ban Thư ký phối hợp với các cơ quan tương ứng khác hỗ trợ nỗ lực của các nước trong việc định hướng thương mại thành các chương trình quốc gia phát triển kinh tế và các chiến lược giảm nghèo. Chương trình trợ giúp kỹ thuật của WTO được xây dựng để hỗ trợ các nước đang phát triển và các nước kém phát triển nhất phù hợp với các quy định và nguyên tắc của WTO, thực hiện các nghĩa vụ và quyền lợi thành viên, bao gồm cả việc sử dụng các lợi ích của hệ thống thương mại đa biên mở dựa trên các nguyên tắc. Các ưu đãi sẽ được dành cho các nền kinh tế nhỏ, yếu kém và đang trong giai đoạn chuyển tiếp, cũng như cho các thành viên và quan sát viên không có đại diện ở Geneva. Một lần nữa chúng tôi khẳng định sự ủng hộ của chúng tôi đối với công việc quý báu này của Trung tâm Thương mại Quốc tế, các công việc này cần phải được đẩy mạnh hơn nữa.

39. Chúng tôi nhấn mạnh tính cấp bách của việc phối hợp hiệu quả song bên với các nhà tài trợ trong việc phân bổ hỗ trợ kỹ thuật trong Uỷ ban Hỗ trợ Phát triển của OECD và các thể chế liên chính phủ quốc tế và khu vực tương ứng trong phạm vi khung khổ chính sách và lịch trình chặt chẽ. Trong việc phối hợp phân bổ hỗ trợ kỹ thuật, chúng tôi yêu cầu Tổng Giám đốc tham vấn với cơ quan tương ứng, các nhà tài trợ và được tài trợ song bên để xác định cách thức tăng cường và hợp lý hoá Khung khổ Hội nhập về Trợ giúp Kỹ thuật liên quan đến Thương mại cho các nước kém phát triển nhất và Chương trình Trợ giúp Kỹ thuật Liên kết Toàn diện (JITAP).

40. Chúng tôi đồng ý rằng nguồn quỹ cho trợ giúp kỹ thuật cần phải được an toàn và minh bạch. Bởi vậy chúng tôi yêu cầu Uỷ ban về Ngân sách, Tài chính và Hành chính xây dựng một kế hoạch để Đại Hội đồng thông qua vào tháng 12/2001 nhằm đảm bảo nguồn tài chính lâu dài cho trợ giúp kỹ thuật WTO ở mức độ tổng thể không thấp hơn năm nay và phù hợp với các hoạt động nêu trên.

41. Chúng tôi đã xây dựng được những chương trình về hợp tác kỹ thuật và xây dựng năng lực tại các đoạn khác nhau trong bản Tuyên bố Bộ trưởng này. Chúng tôi xin khẳng định lại các cam kết riêng này trong các khoản 16, 22, 25-27, 33, 38-40, 42 và 43, và đồng thời khẳng định lại thỏa thuận ở khoản 2 về vai trò quan trọng của các chương trình trợ giúp kỹ thuật và xây dựng năng lực được tài trợ bởi các nguồn tài chính minh bạch.

Chúng tôi yêu cầu Tổng Giám đốc báo cáo tại Phiên 5 Hội nghị Bộ trưởng, và có báo cáo tạm thời cho Đại Hội đồng vào Tháng 12/2002 về việc thực hiện đầy đủ các cam kết tại các khoản nêu trên.

CÁC NƯỚC KÉM PHÁT TRIỂN

42. Chúng tôi nhận thức được tầm quan trọng của các vấn đề mà các nước kém phát triển nhất đưa ra trong tuyên bố Zanzibar được các Bộ trưởng thông qua tháng 7/2001. Chúng tôi cũng nhận thấy việc hội nhập vào hệ thống thương mại đa biên của các nước kém phát triển nhất đòi hỏi phải có sự gia nhập thị trường mức độ đáng kể, sự ủng hộ đối với việc đa dạng hoá sản phẩm và cơ sở xuất khẩu, hỗ trợ kỹ thuật liên quan đến thương mại và xây dựng năng lực. Chúng tôi nhất trí việc các nước kém phát triển nhất hội nhập vào hệ thống thương mại quốc tế và nền kinh tế toàn cầu sẽ cần sự nỗ lực của tất cả các thành viên WTO. Chúng tôi cam kết miễn thuế, không áp dụng biện pháp hạn chế bằng hạn ngạch đối với các sản phẩm có nguồn gốc từ các nước kém phát triển nhất. Về vấn đề này, chúng tôi hoan nghênh những tiến bộ đáng kể trong việc mở cửa thị trường của các thành viên WTO trước hội nghị Liên hợp quốc lần thứ 3 (LDC-III) về các nước kém phát triển nhất tại Brussels tháng 5/2001. Chúng tôi cam kết sẽ xem xét các biện pháp hỗ trợ cho những tiến bộ đáng kể trong việc mở cửa thị trường đối với các nước kém phát triển nhất. Việc gia nhập WTO của các nước kém phát triển nhất vẫn là ưu tiên đối với các nước thành viên. Chúng tôi đồng ý tạo điều kiện thuận lợi và đẩy nhanh quá trình đàm phán với các nước kém phát triển nhất gia nhập. Chúng tôi yêu cầu Ban Thư ký WTO dành ưu tiên cho các nước kém phát triển nhất trong kế hoạch thường niên của WTO về trợ giúp kỹ thuật. Một lần nữa chúng tôi khẳng định các cam kết của chúng tôi tại LDC-III, và nhất trí rằng WTO nên xem xét, trong việc phác thảo chương trình công tác của các nước kém phát triển nhất, các yếu tố liên quan tới thương mại trong Tuyên bố và Chương trình hành động Brussel trong phạm vi thẩm quyền của WTO được thông qua tại LDC-III. Chúng tôi yêu cầu các tiểu ban về các nước kém phát triển nhất phác thảo chương trình công tác và báo cáo chương trình công tác đã được thông qua lên Đại Hội đồng tại cuộc họp đầu tiên của năm 2002.

43. Chúng tôi thông qua Khuôn khổ hội nhập về trợ giúp kỹ thuật liên quan tới thương mại đối với các nước kém phát triển nhất (IF) như là một mô hình có khả năng thực thi đối với sự phát triển thương mại của các nước kém phát triển nhất. Chúng tôi kêu gọi các nước phát triển tăng cường đóng góp cho quỹ tín thác của IF và quỹ tín thác nằm ngoài ngân sách của WTO dành cho các nước kém phát triển nhất. Chúng tôi kêu gọi các cơ quan đại diện chính cùng phối hợp với các đối tác phát triển nhằm tăng cường IF và mở rộng mô hình này đối với tất cả các nước đang phát triển, sau khi rà soát IF vào đánh giá hệ thống Pilot ở một số nước kém phát triển nhất được chọn. Chúng tôi yêu cầu Tổng Giám đốc WTO sau khi phối hợp với các nhà lãnh đạo của các cơ quan khác cung cấp một bản báo cáo tạm thời cho Đại Hội đồng vào tháng 12/2002 và một bản báo cáo đầy đủ cho Hội nghị bộ trưởng lần thứ 5 về tất cả các vấn đề có liên quan tới các nước kém phát triển nhất.

ĐỐI XỬ ĐẶC BIỆT VÀ KHÁC BIỆT

44. Chúng tôi khẳng định lại rằng quy định về dành đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước kém phát triển nhất là một phần của các Hiệp định WTO. Chúng tôi chú ý tới những vấn đề đưa ra những ràng buộc cụ thể đối với các nước đang phát triển đặc biệt là các nước kém phát triển nhất. Về vấn đề này, chúng tôi cũng đặc biệt chú ý tới việc một số nước thành viên đã đề xuất một Hiệp định khung về đối xử đặc biệt và khác biệt (WT/GC/W/442). Vì thế, chúng tôi nhất trí rà soát lại toàn bộ các quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt để làm cho những quy định này ngày càng chính xác hơn, hiệu quả hơn và có tính khả thi hơn. Về lĩnh vực này, chúng tôi thông qua chương trình công tác về đối xử đặc biệt và khác biệt được nêu ra trong Quyết định về các vấn đề liên quan tới việc thực thi quy định dành đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước kém phát triển nhất.

TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ CHƯƠNG TRÌNH CÔNG TÁC

45. Những cuộc đàm phán được tiến hành theo các điều khoản của Tuyên bố này sẽ được kết luận không muộn hơn 1/1/2005. Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5 sẽ đánh giá tiến triển của các vòng đàm phán, hướng dẫn về mặt đường lối chính trị và ra quyết định khi cần thiết. Khi kết quả của các cuộc đàm phán trên tất cả các lĩnh vực được đưa ra, một phiên họp đặc biệt sẽ được triệu tập để đưa ra các quyết định thông qua và thực thi những kết quả này.

46. Toàn bộ các cuộc đàm phán sẽ được Uỷ ban đàm phán thương mại trực thuộc Đại hội đồng giám sát. Uỷ ban đàm phán thương mại sẽ tổ chức cuộc họp đầu tiên không muộn hơn 31/1/2002. ủy ban này sẽ thiết lập một cơ chế đàm phán thích hợp khi cần thiết và giám sát tiến trình đàm phán.

47. Ngoại trừ việc cải tiến và làm rõ các quy định về giải quyết tranh chấp của Thoả thuận Giải quyết Tranh chấp, việc tiến hành, kết luận và tính hiệu lực của kết quả các vòng đàm phán sẽ được coi như là bộ phận của các cam kết đơn phương. Tuy nhiên, các thoả thuận đạt được ở giai đoạn đầu có thể được triển khai trên cơ sở tạm thời hoặc triển khai ngay. Những thoả thuận đạt được sớm hơn sẽ được xem xét trong quá trình đánh giá tính cân bằng tổng thể của các cuộc đàm phán.

48. Các cuộc đàm phán sẽ bắt buộc đối với:

tất cả các thành viên của WTO; và

Các quốc gia và các lãnh thổ hải quan riêng biệt hiện đang trong tiến trình đàm phán gia nhập, những nước thông báo cho các nước thành viên tại cuộc họp thường kỳ của Đại hội đồng ý định gia nhập của mình và những nước mà Ban công tác gia nhập được thành lập

Chỉ có thành viên WTO có thể ra quyết định về các kết quả của các vòng đàm phán.

49. Các cuộc đàm phán sẽ được tiến hành minh bạch giữa các nước thành viên để tạo đIều kiện thuận lợi cho tất cả các nước có thể tham gia một cách hiệu quả.

50. Việc đàm phán và các lĩnh vực khác trong chương trình công tác sẽ xem xét kỹ lưỡng nguyên tắc dành đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước đang phát triển và kém phát triển nhất được thể hiện tại Phần IV của GATT 1994; Quyết định ngày 28/11/1979 về đối xử ưu đãi và khác biệt, dành cho nhau những đặc quyền và sự tham gia đầy đủ hơn của các nước đang phát triển, Quyết định tại Vòng Uruguay về các biện pháp dành cho các nước kém phát triển nhất, và tất cả các quy định khác có liên quan của WTO.

51. Uỷ ban về Thương mại và Phát triển và Uỷ ban về Thương mại và Môi trường trong phạm vi trách nhiệm của mình sẽ hoạt động như một diễn đàn đưa ra và tranh luận các lĩnh vực phát triển và môi trường để đạt được mục tiêu phát triển bền vững.

52. Những phần trong chương trình công tác không có trong nội dung các cuộc đàm phán cũng tuân thủ theo cơ chế ưu tiên. Những phần này chịu sự giám sát của Đại Hội đồng và sẽ được báo cáo tại Hội nghị bộ trưởng lần thứ 5.

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Tuyên bố số 250/WTO/VB của hội nghị bộ trưởng về hệ thống thương mại đa phương

  • Số hiệu: 250/WTO/VB
  • Loại văn bản: WTO_Văn bản
  • Ngày ban hành: 15/11/2001
  • Nơi ban hành: WTO
  • Người ký: ***
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 01/01/1900
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản