Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 04/TTLN

Hà Nội , ngày 07 tháng 1 năm 1995

 

THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH

SỐ 04/TTLN NGÀY 7/1/1995 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐ CAO, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH TẾ 

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 16-3-1994 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-1994.

Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh; Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số điểm như sau:

I- VỀ THỜI HIỆU VÀ THỜI HẠN

1. Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 của Pháp lệnh thì thời hiệu khởi kiện các vụ án kinh tế (quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh) để yêu cầu Toà án giải quyết là sáu tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Quy định này được thống nhất áp dụng đối với mọi tranh chấp kinh tế phát sinh từ ngày 1-7-1994 trở đi.

Quy định "trừ trường hợp pháp luật có quy định khác" cần được hiểu là trong một văn bản pháp luật nào đó có quy định loại tranh chấp nào đó là tranh chấp kinh tế và buộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân, đồng thời có quy định thời hiệu khởi kiện và cách tính thời hiệu khởi kiện khác với quy định tại khoản 1 Điều 31 của Pháp lệnh thì áp dụng thời hiệu khởi kiện và cách tính thời hiệu khởi kiện quy định trong văn bản pháp luật đó mà không áp dụng quy định "thời hiệu khởi kiện là sáu tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp".

2. Đối với các tranh chấp kinh tế quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh mà phát sinh trước ngày 1-7-1994 thì đương sự vẫn có quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết là sáu tháng, kể từ ngày 1-7-1994. Hết ngày 31-12-1994 đương sự không có quyền khởi kiện nữa.

3. Việc xác định ngày bắt đầu và ngày kết thúc của thời hiệu khởi kiện là rất quan trọng để thực hiện đúng các quy định của Pháp lệnh về việc trả lại đơn kiện (Điều 39, khoản 1, điểm d). Ngày bắt đầu của thời hiệu khởi kiện là ngày phát sinh tranh chấp và được xác định phụ thuộc vào từng loại tranh chấp kinh tế; cụ thể như sau:

a) Đối với các tranh chấp về hợp đồng kinh tế:

- Nếu trong thời gian hợp đồng kinh tế đang có hiệu lực mà một trong các bên phát hiện có vi phạm và làm phát sinh tranh chấp, thì ngày phát sinh tranh chấp là ngày phát hiện việc vi phạm.

- Nếu hợp đồng kinh tế đã hết hiệu lực mà các bên không có thoả thuận nào khác và phát sinh tranh chấp, thì ngày phát sinh tranh chấp là ngày tiếp theo của ngày hợp đồng kinh tế đó hết hiệu lực.

- Nếu trước ngày hợp đồng kinh tế hết hiệu lực hoặc vào ngày cuối cùng hợp đồng kinh tế còn hiệu lực mà các bên có thoả thuận về thời hạn thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng kinh tế mà hết thời hạn đó, một trong các bên không thực hiện và làm phát sinh tranh chấp thì ngày phát sinh tranh chấp về việc thực hiện thoả thuận là ngày tiếp theo của ngày hết thời hạn thực hiện thoả thuận đó. Trong trường hợp này có đương sự yêu cầu giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng kinh tế thì Toà án thụ lý giải quyết nếu tính từ ngày hợp đồng kinh tế hết hiệu lực đến ngày khởi kiện chưa hết thời hạn sáu tháng. Nếu đã hết thời hạn sáu tháng, thì Toà án không thụ lý giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng kinh tế, mà chỉ thụ lý giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ do các bên đã thoả thuận. Khi thụ lý giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ do các bên đã thoả thuận các Toà án lưu ý và phân biệt là tuỳ theo tính chất, nội dung thoả thuận và yêu cầu cụ thể của đương sự mà xác định đó là vụ án kinh tế hay vụ án dân sự để thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế hoặc theo thủ tục tố tụng dân sự.

b) Đối với các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty thì ngày phát sinh tranh chấp là ngày có biên bản cuộc họp của công ty, đơn của thành viên công ty, trong đó ghi nhận việc biết hoặc phát hiện có vi phạm liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty và dẫn đến tranh chấp.

c) Đối với các tranh chấp liên quan đến việc mua, bán cổ phiếu, trái phiếu, thì ngày phát sinh tranh chấp là ngày đương sự phát hiện có sự vi phạm trong việc mua, bán cổ phiếu, trái phiếu (kể cả việc chuyển nhượng) và dẫn đến tranh chấp.

Thời hiệu khởi kiện sáu tháng các vụ án kinh tế kết thúc vào ngày tương ứng của tháng thứ sáu, kể từ ngày phát sinh tranh chấp; ví dụ: ngày phát sinh tranh chấp (bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện) là ngày 12-10-1994, thì ngày kết thúc thời hiệu khởi kiện là ngày 12-4-1995. Nếu ngày cuối cùng của thời hiệu khởi kiện trùng với ngày nghỉ (chủ nhật, ngày lễ, ngày tết) thì ngày cuối cùng của thời hiệu khởi kiện là ngày làm việc tiếp theo ngay sau ngày nghỉ. Nếu tháng thứ sáu không có ngày tương ứng thì thời hiệu khởi kiện kết thúc vào ngày cuối cùng của tháng đó; ví dụ: ngày phát sinh tranh chấp là ngày 31-8-1994, thì ngày kết thúc thời hiệu khởi kiện là ngày 28-2-1995.

4. Theo điểm d khoản 1 Điều 39 của Pháp lệnh thì Toà án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án nếu thời hạn khởi kiện đã hết trước ngày Toà án thụ lý vụ án. Theo tinh thần quy định tại Điều 33 của Pháp lệnh thì sau khi nhận được đơn và các tài liệu kèm theo, nếu đơn kiện không thuộc một trong những trường hợp trả lại đơn kiện quy định tại Điều 32 của Pháp lệnh thì Toà án cần xem xét vụ án có thuộc thẩm quyền của mình hay không (thẩm quyền của cấp Toà án, thẩm quyền theo lãnh thổ, thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn). Nếu qua xem xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình thì thông báo cho nguyên đơn biết và trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày được thông báo, nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí. Toà án chỉ vào sổ thụ lý vụ án vào ngày nguyên đơn xuất trình chứng từ về việc nộp tiền tạm ứng án phí. Nếu qua xem xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình thì phải chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền của mình (Điều 16 của Pháp lệnh). Như vậy khoảng thời gian từ ngày đương sự nộp hoặc gửi đơn kiện đến ngày Toà án vào sổ thụ lý vụ án hoặc đến ngày Toà án có thẩm quyền nhận được hồ sơ vụ án tương đối dài (có thể trên dưới một tháng). Nếu xác định ngày Toà án thụ lý vụ án theo quy định tại các điều 33, 34 của Pháp lệnh để tính thời hiệu khởi kiện, thì không phù hợp với quy định tại Điều 31 của Pháp lệnh về thời hạn khởi kiện; do đó, để bảo vệ quyền lợi của đương sự, thì chỉ coi thời hiệu khởi kiện đã hết để trả lại đơn kiện (điểm 2 Điều 32 của Pháp lệnh) hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án (điểm đ khoản 1 Điều 39 của Pháp lệnh). Nếu kể từ ngày phát sinh tranh chấp đến ngày đương sự nộp đơn tại Toà án hoặc ngày theo dấu bưu điện trên phong bì (nếu đương sự gửi đơn kiện qua đường bưu điện) đã quá thời hạn sáu tháng theo cách tính tại điểm 3 mục này.

5. Cách tính các thời hạn quy định trong Pháp lệnh được thực hiện tương tự theo cách tính thời hiệu khởi kiện được hướng dẫn tại điểm 3 mục này. Tuy nhiên, Pháp lệnh chỉ quy định thời hạn để cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu hồ sơ là năm ngày để tham gia phiên toà sơ thẩm (khoản 3 Điều 34 của Pháp lệnh) và mười ngày để tham gia phiên toà phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm (khoản 1 Điều 68, khoản 1 Điều 76, khoản 2 Điều 83 của Pháp lệnh), mà không quy định kể từ ngày nào. Do đó, thời hạn năm ngày và mười ngày này được tính kể từ ngày tiếp theo ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án. Trong trường hợp ngày tiếp theo là ngày nghỉ (chủ nhật, ngày lễ, ngày tết), thì thời hạn năm ngày và mười ngày này được tính bắt đầu từ ngày làm việc đầu tiên tiếp theo của ngày nghỉ đó. Hết các thời hạn nói trên Viện Kiểm sát trả ngay hồ sơ cho Toà án để Toà án chuẩn bị cho việc mở phiên toà đúng thời hạn luật định.

II- VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TOÀ ÁN VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH TẾ

1. Việc chuyển hồ sơ vụ án kinh tế giữa Viện kiểm sát và Toà án được thực hiện như sau:

a) Đối với các vụ án mà Viện kiểm sát có yêu cầu tham gia phiên toà sơ thẩm, thì ngay sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án gửi cho Viện kiểm sát quyết định đưa vụ án ra xét xử và hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát nghiên cứu trong thời hạn năm ngày chuẩn bị cho việc tham gia phiên toà. Hồ sơ vụ án cũng có thể được chuyển cho Viện kiểm sát để nghiên cứu trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.

b) Trong những trường hợp bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà Viện kiểm sát cùng cấp thấy cần nghiên cứu hồ sơ vụ án để đề nghị Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc Viện kiểm sát cấp trên thấy cần xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, thì Viện kiểm sát có công văn yêu cầu Toà án chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát mượn. Toà án chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát chậm nhất là hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được công văn yêu cầu.

Nếu Viện kiểm sát cấp trên yêu cầu Toà án chuyển hồ sơ vụ án, thì Toà án chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát cùng cấp chuyển cho Viện kiểm sát cấp trên.

Trong thời hạn hai tháng kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát chuyển trả lại hồ sơ vụ án cho Toà án, nếu không có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

c) Mọi tài liệu có trong hồ sơ vụ án phải được đánh số thứ tự và có bản kê danh mục các tài liệu. Trước khi chuyển hồ sơ vụ án từ Toà án sang Viện kiểm sát hoặc ngược lại, cần kiểm tra đầy đủ tài liệu trong hồ sơ vụ án. Người nhận hồ sơ vụ án phải đối chiếu bản kê danh mục tài liệu với tài liệu đã được đánh số thứ tự trong hồ sơ vụ án.

2. Theo tinh thần quy định tại khoản 1 Điều 28 của Pháp lệnh, thì việc kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh tế có thể bắt đầu từ khi Toà án thụ lý đơn kiện của đương sự. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm kể từ ngày Toà án thụ lý đơn kiện của đương sự cho đến trước ngày Toà án ra một trong các quyết định tại khoản 2 Điều 34 của Pháp lệnh, nếu xét thấy cần thiết thì Viện Kiểm sát có thể yêu cầu Toà án cho biết những điểm cụ thể nào đó có liên quan đến việc giải quyết vụ án kinh tế. Trong các trường hợp này Toà án có trách nhiệm đáp ứng yêu cầu của Viện kiểm sát.

3. Viện kiểm sát cùng cấp phải cử Kiểm sát viên tham gia phiên toà phúc thẩm trong trường hợp Viện Kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm hoặc có quyết định tham gia phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm. Nếu có quyết định tham gia phiên toà sơ thẩm, thì Viện Kiểm sát cần thông báo họ, tên Kiểm sát viên sẽ tham gia phiên toà cho Toà án biết để Toà án ghi vào Quyết định đưa vụ án ra xét sử theo quy định tại Điều 37 của Pháp lệnh. Nếu sau đó Viện kiểm sát thay đổi Kiểm sát viên thì cần thông báo bằng văn bản cho Toà án và các đương sự biết.

4. Trong trường hợp Toà án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Viện kiểm sát mới xét thấy cần thiết tham gia phiên toà sơ thẩm, thì phải ra quyết định, trong đó ghi rõ Kiểm sát viên tham gia phiên toà và gửi cho Toà án, các bên đương sự. Trong trường hợp này, Toà án không có trách nhiệm gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát theo quy định tại khoản 3 Điều 34 của Pháp lệnh.

Nếu kiểm sát viên cần nghiên cứu hồ sơ vụ án, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để nghiên cứu hoặc Kiểm sát viên có thể đến Toà án để nghiên cứu.

5. Trước khi mở phiên toà, nếu Toà án nhận được đơn yêu cầu thay đổi Kiểm sát viên, thì Toà án chuyển ngay đơn yêu cầu đó cho Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy định tại khoản 1 Điều 19 của Pháp lệnh. Tại phiên toà, nếu Hội đồng xét xử thấy cần phải thay đổi Kiểm sát viên, thì ra quyết định hoãn phiên toà, trong đó nêu rõ lý do hoãn phiên toà và yêu cầu Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét và quyết định cử Kiểm sát viên khác thay thế. Nếu chấp nhận đơn yêu cầu thì ra quyết định cử Kiểm sát viên khác thay thế, nếu không chấp nhận đơn yêu cầu thì ra quyết định không chấp nhận, trong đó cần nêu rõ căn cứ và lý do của việc không chấp nhận. Các quyết định này được gửi cho Toà án và các đương sự. Sau khi nhận được quyết định của Viện kiểm sát Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

6. Theo quy định tại khoản 1 Điều 57 của Pháp lệnh thì chậm nhất là bảy ngày, kể từ ngày tuyên án, ra quyết định, Toà án gửi bản sao bản án hoặc quyết định cho Viện kiểm sát cùng cấp và theo quy định tại khoản 2 Điều 61 của Pháp lệnh thì thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười ngày, của Viện kiểm sát cấp trên là hai mươi ngày, kể từ ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định. Nếu kiểm sát viên không tham gia phiên toà, thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản sao bản án, quyết định. Do đó, để Viện kiểm sát cấp trên thực hiện được quyền kháng nghị của mình, thì chậm nhất là bảy ngày, kể từ ngày tuyên án, ra quyết định (nếu Kiểm sát viên có tham gia phiên toà) hoặc kể từ ngày nhận được bản sao bản án, quyết định (nếu Kiểm sát viên không tham gia phiên toà), Viện kiểm sát cùng cấp phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp trên biết quyết định giải quyết vụ án kinh tế của Toà án.

III- VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC.

1. Theo quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh thì bất cứ giai đoạn nào trong quá trình giải quyết vụ án đương sự có quyền làm đơn yêu cầu Toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ bằng chứng, bảo đảm việc thi hành án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình, nếu có lỗi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Toà án xem xét trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày có yêu cầu. Nếu chấp nhận yêu cầu, thì Toà án ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Để bảo vệ quyền tự định đoạt của đương sự, đồng thời bảo đảm tính đúng đắn chính xác các quyết định của Toà án và khả năng thi hành khi có hậu quả pháp lý xảy ra (thiệt hại do việc có lỗi), Toà án cần giải thích cho đương sự có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời biết rõ quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh, đồng thời xem xét khả năng thực tế bồi thường thiệt hại của họ, nếu họ có lỗi trong việc gây ra thiệt hại. Nếu kết quả cho thấy đương sự vẫn yêu cầu và họ có khả năng bồi thường thiệt hại (nếu có thiệt hại xảy ra do lỗi của họ), thì Toà án cần chấp nhận đơn yêu cầu của họ. Nếu kết quả cho thấy đương sự vẫn yêu cầu, nhưng họ không có khả năng bồi thường thiệt hại (nếu có thiệt hại xảy ra do lỗi của họ), thì Toà án chỉ chấp nhận đơn yêu cầu khi tự mình nhận thấy việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là cần thiết, nếu không thì không chấp nhận.

Đối với yêu cầu của Viện kiểm sát thì Điều 41 của Pháp lệnh quy định: "... Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và phải chịu trách nhiệm về quyết định. Nếu do quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái pháp luật mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường". Theo tinh thần của quy định này, thì Toà án phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình; do đó, Toà án cần phải xem xét một cách đầy đủ, toàn diện và có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của Viện kiểm sát về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo thẩm quyền của mình. Trong trường hợp Toà án không chấp nhận, thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án về quyết định đó của Toà án. Chánh án Toà án phải xem xét và trả lời trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 44 của Pháp lệnh.

2. Điều 88 của Pháp lệnh quy định: "Bản án, quyết định của Toà án về vụ án kinh tế được thi hành theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự"; do đó, việc cấp bản sao bản án, quyết định về vụ án kinh tế cũng như các mối quan hệ công tác khác giữa Toà án với cơ quan thi hành án trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án kinh tế và việc kiểm sát việc thi hành án đối với bản án, quyết định này được thi hành theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21-4-1993 và Thông tư liên ngành số 981/TTLN ngày 21-9-1993 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Hướng dẫn về việc thực hiện một số quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự".

3. Đối với các tranh chấp về hợp đồng kinh tế mà hợp đồng kinh tế đó được ký kết từ ngày 1-7-1994 trở đi cũng như đối với các tranh chấp kinh tế khác mà các bên thoả thuận trước với nhau là phải giải quyết theo thủ tục trọng tài, nếu đương sự có đơn yêu cầu Toà án giải quyết thì Toà án áp dụng điểm 5 Điều 32 của Pháp lệnh trả lại đơn kiện cho đương sự và giải thích cho đương sự biết quy định này của Pháp luật.

Tuy nhiên đối với các tranh chấp về hợp đồng kinh tế mà hợp đồng kinh tế đó được ký kết trước ngày 1-7-1994 và trong đó có điều khoản về việc các bên thoả thuận với nhau khi có tranh chấp thì yêu cầu Trọng tài kinh tế giải quyết, nếu đương sự có đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết và thời hiệu khởi kiện vẫn còn theo cách tính tại mục I Thông tư này, thì Toà án thụ lý để giải quyết mà không áp dụng điểm 5 Điều 32 của Pháp lệnh để trả lại đơn kiện.

4. Khi thi hành quy định tại Điều 87 của Pháp lệnh về việc giải quyết các tranh chấp kinh tế có nhân tố nước người, Toà án cần lưu ý:

a) Theo quy định tại Điều 13 của Pháp lệnh, thì việc giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tất cả các vụ án kinh tế quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh khi có một hoặc các bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài là thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

b) Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác khi có một hoặc các bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài thì không được áp dụng các quy định của Pháp lệnh để giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Việt Nam. Việc giải quyết các tranh chấp kinh tế trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

c) Các tranh chấp kinh tế tại Việt Nam bao gồm:

- Tranh chấp về việc thực hiện hợp đồng kinh tế tại Việt Nam không phụ thuộc vào hợp đồng kinh tế đó được ký kết tại Việt Nam hoặc ở nước ngoài. Cũng cần lưu ý là trong trường hợp hợp đồng kinh tế được ký kết tại Việt Nam hoặc ở nước ngoài, nhưng một phần hợp đồng kinh tế được thực hiện tại Việt Nam, một phần hợp đồng kinh tế được thực hiện ở nước ngoài, nếu có tranh chấp hợp đồng kinh tế, thì Toà án chỉ thụ lý giải quyết tranh chấp về việc thực hiện phần hợp đồng kinh tế tại Việt Nam.

- Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty tại Việt Nam.

- Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu tại Việt Nam.

- Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật là thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án và xảy ra tại Việt Nam.

5. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ban hành.

Trong quá trình thực hiện, nếu có gì vướng mắc, các cơ quan hữu quan báo cáo Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để có hướng giải quyết.

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Thông tư liên ngành 04/TTLN năm 1995 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế do Tòa Án Nhân Dân Tối Cao - Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao ban hành

  • Số hiệu: 04/TTLN
  • Loại văn bản: Thông tư liên tịch
  • Ngày ban hành: 07/01/1995
  • Nơi ban hành: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  • Người ký: ***
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 07/01/1995
  • Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực
Tải văn bản