BỘ LAO ĐỘNG | VIỆT |
Số: 895-LĐ-BH | Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 1959 |
GIẢI THÍCH VỀ CHẾ ĐỘ NGHỈ HÀNG NĂM VÀ NGHỈ VỀ VIỆC RIÊNG
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính gửi | - Các Bộ |
Ngày 21-3-1959 Liên Bộ Nội vụ, Lao động đã ra Thông tư số 14-TT-LB hướng dẫn thi hành nghị định số 028-TTg ngày 28-1-1959 của Thủ tướng Chính phủ. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi đã được các ngành các địa phương phản ảnh những điểm chưa rõ, những mắc mứu cần giải quyết. Sau khi thống nhất ý kiến với Bộ Nội vụ, Bộ Lao động xin giải thích thêm về những điểm chưa rõ, còn những vấn đề thuộc về chủ trương, chúng tôi sẽ cùng các Bộ có liên quan nghiên cứu và quyết định sau.
Dưới đây là những điểm cần giải thích thêm:
1. ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC NGHỈ HÀNG NĂM
- Điều kiện được hưởng chế độ nghỉ hàng năm là phải đủ 12 tháng liên tục công tác kể từ ngày vào làm việc và năm nào tính dứt năm ấy. Tuy đã đủ điều kiện được hưởng chế độ nghỉ hàng năm rồi nhưng vì để bảo đảm hoạt động bình thường của xí nghiệp, công trường, cơ quan nên thời gian đi nghỉ của công nhân viên chức là do Thủ trưởng đơn vị bố trí sắp xếp. Vì thế có người làm việc đến tháng thứ 16, 17… mới đến lượt đi nghỉ và thời gian đi nghỉ cũng chỉ nghỉ theo số ngày thường lệ đã quy định (10 hay 12 ngày lao động) chứ không phải là căn cứ vào số tháng đã làm việc để tính tỷ lệ số ngày nghỉ. Ví dụ: ông A năm 1959 đủ điều kiện được hưởng chế độ nghỉ hàng năm vì trong năm 1958 đã làm việc liên tục đủ 12 tháng nhưng mãi đến tháng 9-1959 mới đến lượt đi nghỉ thì cũng chỉ nghỉ 10 hay 12 ngày lao động thôi, còn thời gian làm việc năm 1959 sẽ dùng làm cơ sở để tính thời gian liên tục cho việc đi nghỉ hàng năm trong năm 1960. Tháng đi nghỉ của một người không nhất thiết năm nào cũng giống năm nào mà là do lịch của đơn vị nơi làm việc bố trí sắp xếp, có thể mỗi năm đi nghỉ vào mỗi tháng khác nhau.
- Thời gian liên tục công tác là kể những thời gian như sau:
Ngày thực tế lao động, công tác.
Thời gian nghỉ đẻ, nghỉ ốm lẻ tẻ trong năm, nghỉ vì tai nạn lao động, nghỉ hàng tuần, nghỉ lễ, nghỉ hàng năm.
Thời gian đi học các lớp văn hóa, chính trị, chuyên môn.
Ngày đi họp, làm công tác lao động xã hội chủ nghĩa, ngày nghỉ về việc riêng được cơ quan, xí nghiệp, công trường, đồng ý cho phép.
Ngày nghỉ được hưởng cả lương hoặc một phần lương do chế độ đã quy định về ngừng việc.
Thời gian bị đình chỉ công tác hoặc bị bắt giam để chờ Tòa án xét xử nhưng sau được miễn tố hay tha bổng và trở lại làm việc.
- Trường hợp nữ công nhân, viên chức trong một năm nghỉ đẻ 2 tháng, sau khi nghỉ đẻ lại bị ốm nghỉ thêm 2 tháng nữa thì năm đó vẫn được tính để hưởng chế độ nghỉ hàng năm vì thời gian nghỉ về ốm chưa đến 3 tháng. Trường hợp ốm nghỉ lẻ tẻ nhiều lần, tuy cộng lại tới 4 hay 5 tháng, nhưng không nghỉ ốm liền một lần nào đến 3 tháng thì vẫn coi là liên tục công tác.
2. TRƯỜNG HỢP ĐƯỢC TÍNH CHO NGHỈ THÊM
Đối với công nhân, viên chức hưởng lương công nhật hay lương khoán có gia đình ở xa quá 2 ngày đường kể cả đi lẫn về thì những ngày được nghỉ thêm sẽ được trả lương như trong những ngày làm việc. Trong những ngày nghỉ thêm đó nếu có ngày nào trùng vào ngày chủ nhật thì ngày ấy không trả lương và cũng không được nghỉ bù thêm.
3. THỜI GIAN THI HÀNH CHẾ ĐỘ NGHỈ HÀNG NĂM
Đối với những người đã đi phép từ ngày 28-1-1959 (ngày ký Nghị định 028-TTg của Thủ tướng Chính phủ) trở về đây cách giải quyết đã nói rõ trong Thông tư Liên Bộ Nội vụ, Lao động số 014-LB-TT ngày 21-3-1959. Còn trường hợp những người được xí nghiệp, công trường, cơ quan cho đi phép từ ngày 27-1-1959 trở về trước thì không trừ vào số ngày nghỉ hàng năm, nếu đủ điều kiện vẫn được bố trí cho đi phép nghỉ hàng năm về năm 1959.
Ví dụ:
a) Ông A được xí nghiệp cho đi phép từ ngày 29-1-1959 đến ngày 2-2-1959, nếu về năm 1958 đã đủ tiêu chuẩn 12 tháng liên tục lao động thì được bố trí cho nghỉ hàng năm về năm 1959 là 10 ngày nhưng phải trừ 5 ngày mà Ông A đã nghỉ, như vậy ông A còn được nghỉ 5 ngày nữa về năm 1959.
b) Ông B được công trường đã cho đi nghỉ phép từ ngày 22-12-1958 đến ngày 5-1-1959 nếu về năm 1958 đã đủ tiêu chuẩn 12 tháng liên tục công tác thì được bố trí cho nghỉ hàng năm về năm 1959 đủ số ngày đã quy định (10 hoặc 12 ngày) không phải trừ.
4. QUYỀN LỢI VỀ CHẾ ĐỘ NGHỈ HÀNG NĂM
Chế độ nghỉ hàng năm ban hành tại Nghị định số 028-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư Liên Bộ Nội vụ, Lao động số 14-LB ngày 21-3-1959 bắt đầu thi hành từ năm 1959, nhưng việc xét cho nghỉ năm nay phải dựa vào thời gian lao động năm 1958, và đến năm 1960 việc xét cho nghỉ phải dựa vào thời gian lao động năm 1959 để tính và xét người nào đủ điều kiện thì người đó sẽ được hưởng quyền lợi về chế độ nghỉ hàng năm. Do đó kể từ 1-1-1959 trở đi đối với những người đã đủ điều kiện được hưởng chế độ nghỉ hàng năm rồi mà thôi việc (xin về sản xuất hoặc chết, v.v…) thì người đó sẽ được thanh toán gọn trả bằng tiền về những ngày được quyền nghỉ hoặc thanh toán cho người được thừa kế do pháp luật đã quy định. Ví dụ: Chị X làm việc ở khu vực I đã liên tục làm việc đủ 12 tháng trong năm 1958 đủ điều kiện để đến năm 1959 hưởng chế độ nghỉ hàng năm là 12 ngày nhưng chưa đến lượt đi nghỉ, đến tháng 5-1959 chị X xin thôi việc về sản xuất; như vậy chị X sẽ được thanh toán 17 ngày (12 ngày về quyền lợi nghỉ năm 1959 vì năm 1958 đã làm việc liên tục đủ 12 tháng và 5 ngày về thời gian lao động 5 tháng trong năm 1959 đáng lẽ để tính và cho nghỉ về năm 1960 nhưng vì chị X thôi việc nên thanh toán ngay cho gọn). Cách thức tính trả lương về những ngày nghỉ hàng năm cho các loại công nhân, viên chức sẽ áp dụng cách trả lương trong những ngày lễ đã quy định ở điều 2, mục A trong Thông tư Liên Bộ Nội vụ, Lao động số 14-TT-LB.
- Đối với công nhân, viên chức nhân dịp nghỉ hàng năm về thăm gia đình hoặc đến một nơi nào để nghỉ ngơi thì chỉ được thanh toán tiền tầu xe, đò, còn tiền phụ cấp đi đường không có vì đó là đi về việc riêng chứ không phải là đi việc công (Trường hợp đi những đoạn đường không có tàu xe Liên bộ đang nghiên cứu).
- Chế độ nghỉ hàng năm không phải là chế độ nghỉ phép của ngoại kiều về nước thăm quê hương, gia đình. Vì vậy đối với công nhân, viên chức ngoại kiều cũng áp dụng theo chế độ chung như công nhân, viên chức của nước Việt
Đảm bảo kế hoạch sản xuất, bảo đảm chương trình công tác là do thủ trưởng các xí nghiệp, công trường, cơ quan chịu trách nhiệm. Vì thế việc bố trí sắp xếp lịch đi nghỉ cho công nhân, viên chức sẽ do chính quyền và đoàn thể các đơn vị đó nghiên cứu và quyết định. Riêng đối với cán bộ phụ trách các đơn vị, thì sẽ đề nghị lên Ủy ban Hành chính địa phương về thời gian nghỉ của mình để Ủy ban xét duyệt.
Đối với những xí nghiệp đang phát động cải tiến quản lý xí nghiệp, các ngành quản lý sản xuất cần có chỉ thị hướng dẫn cho các đơn vị bố trí việc nghỉ phép hàng năm có kế hoạch để khỏi ảnh hưởng tới công tác phát động cải tiến quản lý xí nghiệp.
- Chế độ nghỉ phép về việc riêng thi hành cho tất cả những người đã đi phép hàng năm rồi, những người chưa đến lượt đi phép hàng năm.
- Trường hợp cha mẹ, con cái chết, nói trong Thông tư Liên bộ số 014-TT-LB là kể cả cha mẹ đẻ, cha mẹ vợ (vợ chính thức) hay chồng, cha mẹ nuôi đã nuôi dưỡng đương sự từ nhỏ tới lớn, con nuôi mà đương sự có nuôi nấng thực sự.
- Trường hợp đương sự có cha mẹ, vợ hay chồng, con cái ốm đau nếu được cơ quan, xí nghiệp, công trường đồng ý cho nghỉ để chăm lo săn sóc thì những ngày nghỉ đó sẽ không trừ vào số ngày nghỉ hàng năm mà vẫn coi là liên tục công tác, để xét các điều kiện khác quy định trong Thông tư Liên bộ số 14-TT-LB nếu đủ điều kiện thì vẫn được hưởng chế độ nghỉ hàng năm.
7. PHẠM VI ÁP DỤNG VÀ ĐỐI TƯỢNG THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH 28-TTg
Đoạn 2 của mục phạm vi áp dụng và đối tượng thi hành của Thông tư Liên Bộ Nội vụ, Lao động số 014-TT-LB vì thiếu chữ “công nhân” nên sửa lại như sau cho đúng với tinh thần thông tư:
“Đối với công nhân, nhân viên ngoài biên chế hoặc tuyển dụng theo hình thức hợp đồng…”
- Cả đoạn 2 của mục phạm vi áp dụng và đối tượng thi hành của thông tư Liên Bộ Nội vụ, Lao động số 014-TT-LB nay giải thích thêm:
Đối với công nhân, nhân viên ngoài biên chế hoặc tuyển dụng theo hình thức hợp đồng ở các cơ quan, xí nghiệp, công, nông, lâm trường hưởng lương khoán, lương tháng hay lương ngày không phân biệt tuyển dụng tại chỗ hay phương xa đến làm việc có tính chất thường xuyên liên tục từ 3 tháng trở lên thì được hưởng chế độ nghỉ ngày lễ có lương, nghỉ phép về việc riêng và làm việc thường xuyên liên tục đủ 12 tháng thì được hưởng chế độ nghỉ hàng năm.
- Trường hợp làm khoán cần phân biệt: nếu công nhân hưởng lương xếp theo cấp bậc và trên cơ sở mức lương đó, đơn vị tổ chức cho công nhân làm khoán để khuyến khích sản xuất, hoặc những người làm việc thường xuyên theo lối khoán mức thì nằm trong diện thi hành Nghị định số 028-TTg của Thủ tướng phủ. Cách trả lương trong những ngày nghỉ việc có lương cho những người làm việc thường xuyên hưởng lương khoán thì đơn vị sẽ căn cứ vào công việc làm mà định một mức lương tương đương với cấp bậc của thang lương ngành đó để trả cho anh chị em.
Còn trường hợp làm khoán theo lối giao khoán từng việc, tùng khối lượng công việc định giá công, hết việc thì nghỉ, có việc lại trở lại làm thì không nằm trong diện thi hành Nghị định số 028-TTg của Thủ tướng phủ.
- Công nhân, nhân viên tuyển dụng theo hình thức hợp đồng mà ký kết từng 3 tháng một hết hạn lại ký làm việc có tính chất thường xuyên từ 3 tháng trở lên cũng được hưởng chế độ nghỉ ngày lễ có lương, nghỉ phép về việc riêng và đủ 12 tháng thì cũng được hưởng chế độ nghỉ hàng năm.
- Để đảm bảo sức khỏe và chữa bệnh của cán bộ, công chức, viên chức đang nằm ở bệnh viện, Viện điều dưỡng hoặc nghỉ dưỡng bệnh thì chưa được xét để nghỉ hàng năm, khi nào đương sự ra viện, hết hạn nghỉ dưỡng bệnh về đơn vị sản xuất, công tác, thì đơn vị đó sẽ xét việc cho nghỉ hàng năm theo thể lệ chung đã quy định trong Thông tư Liên Bộ Nội vụ, Lao động số 014-TT-LB.
Việc xét cho cán bộ, công chức, viên chức nghỉ phép hàng năm sau khi ra viện hoặc hết hạn nghỉ dưỡng bệnh phải dựa vào thời gian lao động năm trước và thời gian ốm phải nghỉ việc vừa qua. Nếu năm 1958 đã đủ tiêu chuẩn làm việc liên tục 12 tháng, sang năm 1959 thời gian ốm phải nghỉ việc dưới 3 tháng thì vẫn được bố trí cho nghỉ phép hàng năm về năm 1959. Nếu thời gian lao động năm 1958 đã đủ 12 tháng nhưng đến năm 1959 ốm nghỉ việc một thời gian liền từ 3 tháng trở lên, thì năm 1959 người đó không được nghỉ hàng năm, còn thời gian đã lao động trong năm 1958 thì để đến năm 1960 sẽ nghỉ hàng năm bởi vì người đó năm 1959 đã nghỉ lâu rồi, nếu lại nghỉ cả phép hàng năm vào năm 1959 rồi đến năm 1960 không được nghỉ thì không hợp lý.
Trên đây, chúng tôi giải thích những điểm mà chúng tôi đã được phản ảnh để các ngành, các địa phương có tài liệu hướng dẫn kịp thời sau này có điểm nào cần giải thích thêm chúng tôi sẽ tiếp tục tiến hành sau.
T.L. BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG |
Thông tư 895-LĐ-BH năm 1959 Giải thích về chế độ nghỉ hàng năm và nghỉ về việc riêng do Bộ Lao động ban hành
- Số hiệu: 895-LĐ-BH
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: 10/07/1959
- Nơi ban hành: Bộ Lao động
- Người ký: Trần Văn Mạc
- Ngày công báo: 29/07/1959
- Số công báo: Số 28
- Ngày hiệu lực: 25/07/1959
- Tình trạng hiệu lực: Ngưng hiệu lực