Hệ thống pháp luật

PHỦ THỦ TƯỚNG
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 41-TTg

Hà Nội, ngày 01 tháng 02 năm 1961

THÔNG TƯ

VỀ VIỆC TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ KINH DOANH MÁY BƠM NHỎ TƯỚI RUỘNG

Kính gửi:
Đồng kính gửi:

- Ông Bộ trưởng Bộ Thuỷ lợi và Điện lực;
- Ông Chủ tịch ủy ban hành chính các tỉnh;
- Ông Bộ trưởng Bộ Tài chính;
- Ông Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp;
- Ông Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước,
- Ông tổng Giám đốc Ngân hàng

Miền Bắc nước ta có nhiều sông ngòi, nhưng phần nhiều lòng sông quá sâu so với mặt ruộng, thường năm còn một số khá lớn diện tích chưa có công trình thủy nông bảo đảm nước, trồng trọt còn dựa vào nước trời mưa, nhân dân tốn rất nhiều công sức chống hạn mà có khi thu hoạch lại bị sút kém.

Về phát triển sản xuất nông nghiệp, yêu cầu mỗi năm phải mở rộng diện tích và tăng vụ, tăng năng suất, đòi hỏi phải giải quyết có nước bằng nhiều cách, cho nên song song với việc phát động nhân dân làm nhiều công trình thủy nông nhỏ, Nhà nước đã tích cực xây dựng thêm công trình lớn và giúp nhân dân xây dựng nhiều công trìnhloại vừa, mặt khác dùng máy bơm nước nhỏ tưới ruộng ở những nơi mà những biện pháp trên chưa giải quyết được.

Dùng máy bơm nhỏ tưới ruộng là phương tiện tốt không mất nhiều thời gian xây dựng công trình, có thể di động được nhiều vùng để giải quyết nước cho yêu cầu sản xuất vốn đầu tư tương đối ít. Nhưng đòi hỏi phải có tổ chức quản lý, có công nhân kỹ thuật để sử dụng tốt và phát huy hết tác dụng của máy bơm.

Đối với tổ chức quản lý máy bơm nhỏ, Thủ tướng Chính phủ đã có thông tư số 6051-NL ngày 29 tháng 12 năm 1956, Chỉ thị số 459-TTg ngày 22 tháng 12 năm 1959 và chỉ thị số 145-NL ngày 14 tháng 01 năm 1960 đề ra nguyên tắc, phương châm và một số biện pháp chính để thực hiện, nhưng Bộ Thuỷ lợi và Điện lực, Ủy ban hành chính tỉnh thực hiện chưa đầy đủ tinh thần các thông tư, chỉ thị nói trên. Trong vụ Đông xuân 1959-1960, tuy cócố gắng hơn, có đạt được một số tiến bộ, nhưng đến nay từ trung ương đến địa phương, nói chung việc tổ chức quản lý cònchưa tốt.

- Chưa tận dụng hết công suất máy, chỉ mới sử dụng được khoảng1/2 công suất. Một số diện tích tưới không đúng lúc, có nơi đất khô nẻ, lúa héo mới đem máy bơm đến tưới, thậm chí có nơi lúa vào đồng sắp trổ lại thiếu nước. Do đó tác dụng tưới nước của 496 máy bơm bịhạn chế rất nhiều.

- Bảo quản máy móc không tốt, bị hư hỏng nhiều, tổ chức tu sửa không kịp thời, thời gian phục vụ được ít, hoặc đến lúc cần đến thì không sử dụng được.

Do thiếu sót trên, nên giá thành tưới nước còn cao, từ 22đ50 đến 64đ00 một mẫu Bắc Bộ, bình quân 28đ, chiếm đến 17% sản lượng thu hoạch (ở Trung Quốc giá thành khoảng 7% sản lượng thu hoạch).

Nguyên nhân chính là việc quản lý máy bơm chưa tốt, nhất là chưa có tổ chức bộ máy chuyên trách quản lý máy bơm. Vì vậy tác dụng của máy bơm chưa góp phần thỏa đáng vào công cuộc bảo đảm nước cấy và chống hạn; không khuyến khích được việc sử dụng máy bơm; Nhà nước chưa thu dần được vốn bỏ ra mua máy bơm. Thậm chí có tỉnh không thu lại được các chi phí chạy máy, nên thiếu vốn luân chuyển mua dầu mỡ tiếp tục chạy máy, hoặc sửa chữa nhỏ.

Số máy bơm nhỏ đã có trước kia và trong Đông xuân này sẽ phân phối cho các tỉnh lên đến 818 cái, với số vốn cố định tới 7 triệu đồng và triển vọng mỗi năm sẽ phát triển thêm máy bơm nhỏ, vì vậy lại càng tăng cường và chấn chỉnh tổ chức quản lý và kinh doanh máy bơm, bảo đảm tưới nước và chống hạn kịp thời, tận dụng hết công suất máy, hạ giá thành tưới nước, đem lợi ích thiết thực cho hợp tác xã nhằm phục vụ sản xuất nông nghiệp tốt hơn nữa, đồng thời bảo đảm thu hồi vốn của Nhà nước.

Để bổ khuyết tình trạng trên và trong khi chờ đợi nghiên cứu một điều lệ chính thức về tổ chức quản lý và kinh doanh máy bơm nhỏ tưới ruộng, Thủ tướng Chính phủ tạm thời quy định tổ chức quản lý và kinh doanh máy bơm nhỏ tưới ruộng như sau:

1. Mục đích và ý nghĩa việc tổ chức quản lý và kinh doanh máy bơm nhỏ tưới ruộng.

Tổ chức quản lý và kinh doanh máy bơm nhỏ tưới ruộng nhằm mục đích giúp đỡ nông dân giải quyết hạn ở một số vùng có khó khăn về nước, nhằm đẩy mạnh tăng vụ, tăng diện tích, tăng năng suất lúa, hoa màu và cây công nghiệp và giúp nông dân bảo đảm được canh tác đúng kỹ thuật. Do đó góp phần tăng thu nhập cho hợp tác xã và nông dân ngoài hợp tác xã, góp phần củng cố và phát triển phong trào hợp táchóa nông nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân. Trong trường hợpthật cầnthiết có tính chất thời vụ mới sử dụng máy bơm nhỏ vào việc chống úng thủy.

Việc sử dụng máy bơm nhỏ tưới ruộng nhằm giảm bớt sức lao động của nông dân trong việc tát nước chống hạn để có thể sử dụng sức lao động đó làm việc khác có lợi cho nông dân.

Để đạt được mục đích trên, phải sử dụng hợp lý máy bơm nhỏ tưới ruộng mới có lợi, phải có kế hoạch tưới đủ nước dưỡng lúa suốt vụ, bảo đảm tưới giữ độ ẩm cho hoa màu và cây công nghiệp, hết sức tránh tình trạng không có kế hoạch trước, đến khi nào có hạn mới đem máy bơm đến chống hạn, như vậy là hạn chế tác dụng của máy bơm và dù có đưa nước lên cũngđãảnh hưởng đến sự sinh trưởng của lúa, hoa màu và cây công nghiệp.

Hiện nay số máy bơm nhỏ tưới ruộng chưa phải đủ để bảo đảmtưới nước cho diện hạn ngoài số công trình thủy nông đã có, vì vậy việc tát nước bằng những phương tiện thô sơ và cải tiến vẫn là chủ yếu. Còn máy bơm chỉ giải quyết hạn trong những trường hợp ở một số vùng thiếu nguồn nước nội địa, những vùng cách xa mương ngòi, những vùng công trình thủy nông chưa bảo đảm được nước.

2. Về tổ chức và kinh doanh của đội máy bơm nhỏ tưới ruộng.

a) Về tổ chức:

Bộ Thuỷ lợi và Điện lực tiếp tục phân phối số máy bơm nhỏ tưới ruộng hiện có giao cho Ủy ban hành chính các tỉnh quản lý, theo nhu cầu cần thiết của việc sử dụng máy bơm nhỏ tưới ruộng của mỗi địa phương. Khi phân cấp cho tỉnh chịu trách nhiệm trước Nhà nước về quản lý số máy bơm nhỏ tưới ruộng, nếu tỉnh nào có từ 5 máy bơm trở lên thì tổ chức đội máy bơm nhỏ tưới ruộng, gọi tắt là “Đội máy bơm”.

Đội máy bơm thuộc loại xí nghiệp quốc doanh địa phương là đơn vị kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế. Đội máy bơm là xí nghiệp đặc biệt, chuyên phục vụ sản xuất nông nghiệp, hoạt động có tính chất thời vụ, vốn luân chuyển chậm, vì đầu vụ tưới nước đến cuối vụ mới thu vốn về. Với tính chất của Đội máy bơm như trên, cho nên việc kinh doanh phải hợp lý luôn luôn nâng cao tác dụng và hiệu suất của máy bơm, hạ giá tưới nước, có lợi cho Nhà nước và nông dân.

Đối với những tỉnh có từ 4 máy bơm trở xuống, thì tổ chức một bộ phận máy bơm hoạt động theo lối sự nghiệp, nhưng phải cố gắng tăng thu, giảm chi.

b) Vốn và kinh doanh của đội máy bơm của tỉnh:

Đội máy bơm thuộc loại xí nghiệp quốc doanh địa phương, thì ngân sách địa phương cấp vốn cố định và lưu động. Nhưng đặc biệt năm nay là năm đầu tiên tổ chức đội máy bơm ở tỉnh, vì vậy Bộ Thuỷ lợi và Điện lực bàn với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tàichính ghi dự trù ngân sách xây dựng cơ bản của Bộ để xây dựng đội máy bơm ở mỗi tỉnh; đồng thời bán với Bộ Tài chính ghi dự trùvốn lưu động cho các đội máy bơm hoạt động.

Trong khi Bộ Thuỷ lợi và Điện lực phân phối số máy bơm hiệncó về mỗi tỉnh, phải tính giá trị từng loại máy bơmgiao chotỉnh, coi như Nhà nước cấp 100% vốn cố định xây dựng đội máy bơm ở tỉnh. Về vốn lưu động thì căn cứ vào sự hoạt động của từng đội máy bơm theo nguyên tắc định mức vốn lưuđộng cho một xí nghiệp có tính chất thời vụ mà định mức cấp vốn lưu động cần thiết. Nếu quý nào nhằm đúng thời vụ, đội máy bơm hoạt động nhiều, thì vay thêm Ngân hàng nhằm tăng cường sự giám đốc vốn của Ngân hàng Nhà nước.

Đội máy bơm là xí nghiệp đặc biệt, tổ chức ra nhằm phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp, vì vậy Chính phủ chủ trương cho đội máy bơm kinh doanh không lãi, nhưng bảo đảm không lỗ. Giá tiền diesel chạy máy bơm được giảm 25% trên giá quy định của Nhà nước theo thông tư số 436-TTg ngày 07 tháng 12 năm 1959 của Thủ tướng Chính phủ. Giá cung cấp nước tưới của máy bơm nhỏ có một công mẫu sẽ dựa theo nguyên tắc trên mà quy định và thu hồi bằng tiền. Trường hợp vì thiên tai đặc biệt bị mất mùa, tuỳ theo nặng nhẹ, Nhà nước sẽ cho nông dân hoãn đến vụ sau sẽ trả tiền tưới nước.

3. Về quản lý sử dụng máy bơm nhỏ tưới ruộng.

Việc quản lý và sử dụng máy bơm nhỏ tưới ruộng phải đạt được mục đích và yêu cầu trên, vì vậy phải có kế hoạch tưới, kế hoạch giá tưới nước, quản lý kỹ thuật, thì mới sử dụng máy bơm có lợi nhất cho nông nghiệp, Ủy ban hành chính địa phương cần lãnh đạo chặt chẽ đội máy bơm và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc sử dụng máy bơm và bảo quản tốt, tránh tình trạng để sét rỉ, hư hỏng, mất mát. Mỗi đội máy bơm cần có công nhân kỹ thuật và qua thực tiến sẽ đào tạo bồi dưỡng thêm nghề nghiệp cho công nhân, để càng ngày sử dụng máy bơm càngtốt hơn.

Số máy bơm có trước và trong Đông xuân này là 818 cái và những năm tới sẽ phát triển thêm nhiều hơn, vì vậy ngay bây giờ Bộ Thuỷ lợi và Điện lực cần ký hợp đồng đặt sản xuất phụ tùng thay thế và sửa chữa máy bơm với các xí nghiệp công nghiệp trong nước, hoặc ký hợp đồng với ngoại thương nhập của nước ngoài đối với những loại phù tùng trong nước chưa sản xuất được, nhằm bảo đảm có phụ tùng thay thế, hoặc sửa chữa kịp thời số máy bơm bị hư mòn. Mặt khác Bộ cần nghiên cứu mức độ phát triển máy bơm nhỏ cho Đông xuân 1961-1962, để đề nghị Ủy ban Kế hoạch Nhà nước kịp thời có kế hoạch sản xuất máy bơm trong nước, hoặc nhập khẩu nước ngoài.

Tổ chức đội máy bơm do Ủy ban hành chính tỉnh lãnh đạo và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về kinh doanh và quản lý số tài sản của Nhà nước, nhưng Bộ Thuỷ lợi và Điện lực vẫn có trách nhiệm về mặt chỉ đạo nghiệp vụ kinh doanh, nghiệp vụ tưới nước, về kỹ thuật đối với các đội máy bơm, và có thể điêu động máy bơm từ nơi này đến nơi khác, khi cần thiết chống hạn sau khi thỏa thuận với Ủy ban hành chính địa phương. Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm theo dõi quản lý vốn của các đội máy bơm.

Máy bơm nhỏ tưới ruộng nói chung là tập trung lại tổ chức thành xí nghiệp địa phương nhưng nếu hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có khả năng quản lý kinh doanh, có công nhân kỹ thuật, có đủ điều kiện tưới, thì Bộ Thuỷ lợi và Điện lực có thể bán máy bơm nhỏ cho hợp tác xã sản xuất nông nghiệp dùng tưới ruộng.Giá máy bơm nhỏ theo quy định của Nhà nước và khi mua phải trả tiền ngay, nếu không đủ tiền mua thì Ngân hàng Nhà nước cho vay, Ngân hàng Nhà nước cần có dự trù khoản tiền cho hợp tác xã sản xuất nông nghiệp vay mua máy bơm.

Trên đây Thủ tướng Chính phủ quy định một số điểm cơ bản về tổ chức đội máy bơm tỉnh, trong quá trình thực hiện sẽ rút kinh nghiệm và bổ sung đầy đủ hơn, tiến tới có một điều lệ chính thức về tổ chức và quản lý sử dụng máy bơm nhỏ tưới ruộng. Bộ Thuỷ lợi và Điện lực, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước cần có chỉ thị hướng dẫn cụ thể cho các tỉnh thực hiện. Ủy ban hành chính các tỉnh cần phổ biến kỹ thông tư này đến tận hợp tác xã sản xuất nông nghiệp làm cho xã viên nhận rõ mục đích ý nghĩa việc Nhà nước tổ chức đội máy bơm và thực hiện đúng tinh thần những điểm quy định trên.

Mong Bộ Thuỷ lợi và Điện lực và Ủy ban hành chính các tỉnh tích cực thực hiện thông tư này, bảo đảm tổ chức kịp thời đội máy bơm và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đội máy bơm hoạt động phục vụ sản xuất Đông xuân năm 1960-1961 và lâu dài cho những năm tới.

K.T.THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG




Phạm Hùng

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Thông tư 41-TTg năm 1961 về việc tổ chức quản lý và kinh doanh máy bơm nhỏ tưới ruộng do Phủ Thủ tướng ban hành

  • Số hiệu: 41-TTg
  • Loại văn bản: Thông tư
  • Ngày ban hành: 01/02/1961
  • Nơi ban hành: Phủ Thủ tướng
  • Người ký: Phạm Hùng
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 5
  • Ngày hiệu lực: 16/02/1961
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản