Hệ thống pháp luật

BỘ NỘI VỤ
*******

Số: 33-NV

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

*******

Hà Nội, ngày 08 tháng 11 năm 1969

THÔNG TƯ

VỀ VIỆC CẤP PHÁT CHÂN GIẢ, TAY GIẢ, GIÀY CHỈNH HÌNH CHO THƯƠNG BINH VÀ NHỮNG NGƯỜI BỊ THƯƠNG ĐƯỢC HƯỞNG CHÍNH SÁCH NHƯ THƯƠNG BINH

Trước đây, Bộ Thương binh đã có Thông tư số 89-TB/TT ngày 23/4/1959 quy định chế độ cấp phát chân giả, tay giả và giày chỉnh hình cho thương binh, dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương tật, sau đó Bộ Nội vụ đã có nhiều văn bản bổ sung.

Nay để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Bộ quy định lại chế độ cấp phát chân giả, tay giả và giày chỉnh hình cho thương binh và những người bị thương được hưởng chính sách như thương binh như sau:

A. ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC CẤP

1. Thương binh.

2. Những người bị thương được hưởng chính sách như thương binh: dân quân, du kích, thanh niên xung phong, công an xung phong bị thương (trong kháng chiến chống Pháp); dân quân, tự vệ, thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước, công nhân, viên chức, cán bộ giữ những chức chủ chốt ở xã, dân công phục vụ các chiến trường quan trọng bị thương vì trực tiếp tham gia chiến tranh (trong kháng chiến chống Mỹ).

3. Cán bộ không giữ chức chủ chốt ở xã, người làm vận tải, bốc dỡ, dân công và nhân dân bị thương vì trực tiếp tham gia chiến đấu.

4. Thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước bị thương trong khi làm nhiệm vụ, dân quân, tự vệ bị thương trong khi tập luyện quân sự.

B. ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC CẤP

1. Chân giả, tay giả:

Các đối tượng nói trên bị thương cụt chân, cụt tay (1 hoặc 2 chân, tay) sẽ được cấp chân giả, tay giả, và phụ tùng nếu sử dụng được chân giả, tay giả.

Nếu vì vết thương hay bệnh tật, mà cần có chân “a-ten” hoặc các loại “a-ten” khác thì được cấp chân “a-ten” hoặc các loại “a-ten” khác.

2. Giày hoặc dép chỉnh hình.

Các đối tượng nói trên bị thương mắc cá hoặc nửa bàn chân, không được lắp chân giả, hoặc chân bị ngắn từ 3 phân trở lên, hoặc bàn chân bị vẹo lệch nhiều, nếu có điều kiện sử dụng giày hoặc dép chỉnh hình thì được cấp loại giày hoặc dép này.

C. THỜI GIAN SỬ DỤNG

Thời gian sử dụng các phương tiện nói trên quy định như sau:

- Chân giả: 3 năm (nếu được cấp thêm chân lao động thì 5 năm).

- Tay giả: 5 năm.

- Giày chỉnh hình: 18 tháng.

- Chân “a-ten”: 3 năm (riêng giày ở chân “a-ten” thì mỗi năm cấp lại 1 lần).

Hết hạn sử dụng trên đây, nếu các phương tiện trên không dùng được nữa thì được cấp phương tiện mới. Riêng đối với chân giả và tay giả, nếu trong thời hạn sử dụng trên mà bị hư hỏng nhiều như: vỡ bắp đùi, vỡ bắp tay, gẫy bàn chân, mất ốc vít hãm bàn chân… hoặc vì vết thương biến dạng không sử dụng được nữa thì được mang đến xí nghiệp chân tay giả để sửa chữa lại hoặc làm mới.

D. MỘT SỐ CHẾ ĐỘ KHÁC

1. Tiền lộ phí.

Các đối tượng nói trên đi làm chân giả, tay giả:

- Nếu là người trong biên chế Nhà nước thì được cơ quan hoặc đơn vị cấp lộ phí theo chế độ của công nhân, viên chức, quân nhân đi công tác.

- Nếu là người ngoài biên chế Nhà nước thì do ban thương binh- xã hội tỉnh, thành phố cấp lộ phí lượt đi, còn lượt về do xí nghiệp chân tay giả cấp (lộ phí gồm: tiền ăn 1đ20 một ngày và tiền tàu xe đi đường).

2. Tiền ăn trong thời gian chờ đợi làm chân giả, tay giả.

Nếu là người trong biên chế Nhà nước thì phải tự thanh toán lấy. Nếu là người ngoài biên chế Nhà nước thì do xí nghiệp chân tay giả đài thọ. Tiền ăn mỗi tháng ấn định là 18 đồng. Các đối tượng trên đây phải nộp tem gạo hoặc phiếu chuyển lương thực.

3. Tiền bồi dưỡng.

Khi làm chân giả, tay giả lần đầu, trong thời gian tập sử dụng chân giả, tay giả, các đối tượng nói trên được bồi dưỡng mỗi ngày 0đ40 bằng hiện vật.

Số ngày được bồi dưỡng ấn định như sau:

- 30 ngày nếu tập sử dụng chân trên gối hoặc chân “a-ten”;

- 15 ngày nếu tập sử dụng chân dưới gối hoặc tay lao động, tay trên khỉu.

Nếu tập sử dụng 2 chân hoặc tay thì được bồi dưỡng gấp đôi. Tiền bồi dưỡng do xí nghiệp chân tay giả đài thọ.

Tuy nhiên trong thực tế, nếu chỉ tập sử dụng dưới số ngày quy định thì chỉ thanh toán theo đúng số ngày đã tập, nhưng xét thấy cần tập thêm quá số ngày quy định thì theo đề nghị của y sĩ, bác sĩ, xí nghiệp chân tay giả có thể quyết định bồi dưỡng thêm, nhưng không quá 10 ngày.

4. Chữa bệnh.

Trong thời gian ở xí nghiệp chân tay giả, nếu các đối tượng nói trên bị ốm nhẹ hoặc vết thương bị sây sát nhẹ thì xí nghiệp chân tay giả phụ trách việc chữa bệnh và cấp thuốc.

Nếu ốm nặng hoặc vết thương bị tái phát thì được đi bệnh viện chữa và hưởng theo chế độ chữa bệnh, quy định trong Thông tư số 19-TT/LB ngày 19/3/1962 của Liên bộ Nội vụ - Y tế - Tài chính.

E. THỦ TỤC THI HÀNH.

Việc giới thiệu người đến xí nghiệp chân tay giả để làm và nhận chân giả, tay giả, giày chỉnh hình quy định như sau:

- Những người còn tại ngũ thì do các đơn vị quân đội từ tiểu đoàn và tương đương trở lên giới thiệu;

- Những người ở các trại thương binh trực thuộc Bộ Nội vụ thì do quản đốc trại giới thiệu;

- Những người về địa phương hoặc làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp cấp huyện thì do Ủy ban hành chính huyện giới thiệu (trong phạm vi số lượng chân giả, tay giả,…được tính phân phối cho hàng qúy);

- Những người ở trạm thương binh hoặc làm việc ở các cơ quan, xí nghiệp chung quanh tỉnh thì do ban thương binh – xã hội tỉnh giới thiệu;

- Những người làm việc ở các cơ quan, xí nghiệp trung ương thì do cơ quan, xí nghiệp (Bộ, Cục hoặc xí nghiệp, trường học, bệnh viện…) giới thiệu.

Ngoài giấy giới thiệu (cấp 2 bản, 1 bản để xí nghiệp giữ làm chứng từ thanh toán, 1 bản để xin cấp thực phẩm), khi đến xí nghiệp chân tay giả, những người trên đây phải mang theo:

- Phiếu hẹn đến làm hoặc nhận chân giả, tay giả, giày chỉnh hình do xí nghiệp chân tay giả cấp;

- Giấy chứng nhận là người thuộc các đối tượng nói trên (sổ thương tật, giấy chứng nhận thương binh, giấy chứng nhận là người bị thương vì trực tiếp tham gia chiến đấu…);

- Giấy chuyển cấp lương thực (hoặc tem, gạo) và phiếu thực phẩm (nếu có).

Để việc làm chân giả, tay giả, giày chỉnh hình đi vào nề nếp, hàng năm vào qúy III, các ban thương binh – xã hội tỉnh, thành phố phải gửi về Bộ Nội vụ (Cục quản lý sản xuất) bản dự trù cho năm sau về số lượng chân giả, tay giả, giày chỉnh hình cần làm cho thương binh và những người bị thương khác ở địa phương mình, để Bộ Nội vụ định kế hoạch và giao chỉ tiêu cho các xí nghiệp chân tay giả. Trước mỗi qúy, Cục quản lý sản xuất sẽ báo cho các ban thương binh – xã hội rõ số lượng chân giả, tay giả, giày chỉnh hình sẽ làm cho người của địa phương trong qúy, ban thưong binh – xã hội sẽ giới thiệu người đi làm chân giả, tay giả, giày chỉnh hình trong phạm vi số lượng được giao.

Riêng các đơn vị quân đội và các cơ quan, xí nghiệp Trung ương thì không phải làm dự trù hàng năm nhưng phải liên hệ trước với xí nghiệp chân tay giả, để được hẹn ngày đến làm chân giả, tay giả, giày chỉnh hình và đến ngày hẹn sẽ giới thiệu thương binh hoặc người bị thương khác đến xí nghiệp chân tay giả.

Thông tư này bãi bỏ Thông tư số 89-TB/TT ngày 23/4/1959 của Bộ Thương binh và các văn bản bổ sung về sau và sẽ thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1970.

KT. BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
THỨ TRƯỞNG




Lê Đình Thiệp

BẢN KÊ

CÁC PHỤ TÙNG CẤP PHÁT CÙNG VỚI CHÂN GIẢ, TAY GIẢ VÀ GIÀY CHỈNH HÌNH

1. Các loại chân giả

Chân cụt trên hoặc dưới gối:

- Bọc mỏm cụt: mỗi năm 2 chiếc bọc mỏm cụt bằng sợi hoặc 1 chiếc bọc mỏm cụt bằng len, cấp 3 năm một lần

- Nạng bằng gỗ

1 đôi

- Giầy vải

1 đôi

- Bít tất chân

1 đôi

Chân tháo khớp hông:

Tiêu chuẩn như chân cụt trên gối nhưng không cấp bọc mõm cụt mà cấp đệm gối.

Chân “a-ten”

- Nạng bằng gỗ

1 đôi

- Giầy da (loại gắn liền với nẹp) 2 đôi cấp lần đầu

- Bít tất chân

2 đôi

2. Loại tay giả.

Tay có bàn:

- Bọc mỏm cụt

2 chiếc (bằng sợi)

- Tất tay

1 đôi

Tay lao động:

- Bọc mỏm cụt

4 chiếc

Ngoài ra tùy theo nghề nghiệp và khả năng sử dụng của từng người mà có thể cấp thêm, những dụng cụ như: dao, liềm, búa con, móc, kìm, tay bưng (bát cơm), tay giặt quần áo và thìa khóa mở ốc vít…

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Thông tư 33-NV 1969 về việc cấp phát chân giả, tay giả, giày chỉnh hình cho thương binh và những người bị thương được hưởng chính sách như thương binh do Bộ Nội Vụ ban hành

  • Số hiệu: 33-NV
  • Loại văn bản: Thông tư
  • Ngày ban hành: 08/11/1969
  • Nơi ban hành: Bộ Nội vụ
  • Người ký: Lê Đình Thiệp
  • Ngày công báo: 15/12/1969
  • Số công báo: Số 18
  • Ngày hiệu lực: 01/01/1970
  • Tình trạng hiệu lực: Ngưng hiệu lực
Tải văn bản