BỘ Y TẾ | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 30-BYT/TT | Hà Nội, ngày 23 tháng 12 năm 1987 |
2. Cải thiện một cách chính đáng và hợp lý cho cán bộ y tế thuộc ngành chữa bệnh.
2. Thuốc để chữa bệnh hiện còn rất thiếu nhưng việc sử dụng thuốc của cán bộ y tế cũng có nhiều lúc không hợp lý vì vậy sử dụng thuốc hợp lý là một phương hướng mà các cơ quan quản lý cần hết sức chú ý đồng thời hướng chủ yếu về phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc trong công tác khám chữa bệnh ngoài giờ.
3. Muốn thực hiện việc giảm quá tải của người bệnh nội trú thì phải chú ý đến khâu chữa ngoại trú và các dịch vụ ngoại trú mà trong phần nội dung sẽ nói cụ thể hơn.
4. Cần tổ chức để người bệnh đến khám không trả tiền trực tiếp cho thầy thuốc trực tiếp khám bệnh mà có tổ chức thu tiền riêng biệt.
5. Nơi nào không có nhu cầu thì không tổ chức.
2. Cán bộ y tế có bằng cấp đương chức hay đã về hưu hoặc về mất sức đều được tham gia theo hình thức hợp đồng hoặc liên kết với các cơ sở y tế khám chữa bệnh.
3. Những cán bộ y tế có bằng cấp khi chấn chỉnh tổ chức, sắp xếp biên chế không ở trong biên chế Nhà nước được y tế các cấp giúp đỡ để mở phòng khám chữa bệnh ngoài giờ nhưng phải được xét duyệt thật chặt chẽ, phải được chính quyền địa phương (phường, xã) quản lý.
4. Cơ quan cấp giấy phép là Sở Y tế địa phương cho các cơ sở y tế của địa phương; Cơ quan Trung ương thì do Bộ Y tế sau khi đã trao đổi với Sở Y tế địa phương (nếu đóng tại địa phương).
Sở Y tế địa phương quy định quy mô tổ chức khám chữa bệnh ngoài giờ có quản lý thích hợp và thuận lợi cho người dân nhưng phải chú ý đến điều kiện để bảo đảm chất lượng khám chữa bệnh.
2. Phẫu thuật thì hạn chế trong mức độ tiểu phẫu thuật.
3. Các dịch vụ kỹ thuật khác (như nạo thai, hút điều hoà kinh nguyệt, đặt vòng, truyền dịch) hoặc các phẫu thuật khác như nạo V.A, cắt A-Mi-Đan kể cả các phẫu thuật cao hơn cũng có thể làm nhưng phải có giấy phép đặc biệt của Sở Y tế và ý kiến chủ nhiệm khoa bệnh viện tỉnh thuộc chuyên khoa đó của địa phương đồng ý. Mục đích là để phát triển chữa ngoại trú nhưng phải bảo đảm điều kiện chất lượng về cán bộ cũng như cơ sở vật chất.
4. Các dịch vụ thuộc chức năng y tá, kỹ thuật viên được khuyến khích thực hiện tại nhà và ngay cả trong bệnh viện nhưng đều có quản lý và có quy định theo hợp đồng cụ thể với nhân dân. Ví dụ: Đo huyết áp tại nhà, tiêm tại nhà, xoa bóp bấm huyệt tại nhà, thay băng, săn sóc bổ sung tại bệnh viện ngoài giờ, hướng dẫn tập luyện tại nhà v.v...
5. Các hợp đồng quản lý sức khoẻ có thù lao theo chế độ thầy thuốc riêng, y tá riêng cũng được khuyến khích.
6. Không được phép làm các dịch vụ ngoài 5 điều quy định trên đây.
2. Những cơ sở muốn tổ chức phải phổ biến và lên phương án thực hiện, bao gồm:
- Nội dung (lên danh mục các dịch vụ chuyên môn kỹ thuật).
- Điều kiện vật chất cần huy động cho công tác khám chữa bệnh ngoài giờ.
- Xây dựng quy chế.
- Cử ban điều hành.
- Quy định chia phúc lợi (xem phần hướng dẫn ở mục sau).
- Lên danh sách cán bộ tham gia.
3. Đặc biệt chú trọng chữa bệnh bằng những phương pháp không dùng thuốc.
4. Tổ chức quầy thuốc gần chỗ khám bệnh thuận tiện cho nhân dân theo nguyên tắc phải được phép của ngành quản lý dược địa phương, hình thức có thể là đại lý, liên kết, nhưng phải do dược sĩ đứng ra quản lý, không được sử dụng thuốc do Trung ương phân phối theo kế hoạch sử dụng cho bệnh viện và bệnh xã hội để bán cho bệnh nhân khám ở phòng khám bệnh ngoài giờ. Không được dùng thuốc trong kế hoạch để bán lấy chênh lệch giá.
Đây là một công tác của ngành nên Liên hiệp Xí nghiệp Dược Việt Nam phải quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi. Có thể tổ chức các quầy thuốc ký gửi hay giá cao các thuốc địa phương tự nhập từ ngoài vào. Những phương tiện vật tư y tế như fim X. quang, chỉ phẫu thuật, băng dính cũng được khuyến khích dưới dạng ký gửi hay thu mua theo giá thoả thuận. Vấn đề là biết hướng dẫn cho việc nhập nội có hiệu quả cao và thiết thực.
5. Tổ chức tại chỗ hay liên kết tổ chức vấn đề xét nghiệm thăm dò chức năng để thực chất là nâng cao chất lượng khám chữa bệnh.
6. Công tác kiểm tra định kỳ là rất cần thiết để bảo đảm đúng phương hướng và mục đích đã nêu ở phần I và II.
7. Phương án thực hiện phải được Sở Y tế phê chuẩn.
- 30% cho quỹ phúc lợi tập thể.
- 5% chi phí khấu hao điện, nước.
- 5% cho ban điều hành (nếu có) và giao tế.
- 60% chia cho người trực tiếp tham gia.
Những người trực tiếp tham gia được phân phối như sau:
- Bác sĩ, Dược sĩ 50%.
- Y tá, kỹ thuật viên 30%.
- Nhân viên khác 20%.
Nếu dùng phương tiện chẩn đoán thông thường, xét nghiệm máu, đờm, sinh hoá phổ thông thì tính trong khấu hao 5%.
Nếu dùng phương tiện chẩn đoán cao cấp như Điện tim, X. quang, soi dạ dày... nói chung là các phương tiện cần phải nhập bằng ngoại tệ và ngoại tệ mạnh thì Sở Y tế phải hết sức cân nhắc do khả năng nhập rất hạn chế nên không khuyến khích. Nhưng địa phương nào có khả năng nhập bằng quỹ địa phương thì do Sở Y tế cho phép. Nếu vẫn trông cậy vào nguồn ngoại tệ của Trung ương thì phải xin phép Bộ Y tế mới được thực hiện.
Về biểu giá của một lần khám, chữa bệnh cũng như các dịch vụ kỹ thuật khác, Bộ Y tế chỉ hướng dẫn theo nguyên tắc là dịch vụ kỹ thuât y tế không phải là dịch vụ kinh doanh mà chỉ với mục đích là phục vụ có hạch toán một phần. Vì vậy biểu giá là do Sở Y tế quy định sau khi thống nhất với Uỷ ban Vật giá địa phương và do Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân địa phương quyết định.
Trong năm 1988, chưa đặt vấn đề thu thuế sản xuất doanh nghiệp như các ngành dịch vụ khác.
2. Chỉ chú trọng khám chữa bệnh ngoài giờ mà lơ là khám chữa bệnh trong giờ.
3. Sử dụng thuốc, vật tư của Nhà nước để tổ chức khám chữa bệnh ngoài giờ vì lợi ích trước mắt.
4. Nhân dân phải đến khám chữa bệnh ngoài giờ mới được dễ dàng cho vào viện để chữa bệnh khi cần thiết.
5. Phân chia phúc lợi không minh bạch gây mất đoàn kết, phúc lợi của Ban điều hành quá nhiều.
6. Không thể hiện được phương hướng y học dự phòng, khuyến khích chữa bệnh không dùng thuốc, sử dụng thuốc hợp lý, gây nghiêm trọng thêm việc thiếu thuốc và để nhân dân ỷ lại vào thuốc và thầy thuốc.
Năm 1985 - 1986, Bộ Y tế đã khảo sát và cho thực hiện việc khám, chữa bệnh ngoài giờ ở Bệnh viện Chợ Rẫy, Viện Y học dân tộc Trung ương và nhiều địa phương như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội cũng đã làm. Nay dưới tinh thần Nghị quyết II và được sự uỷ quyền của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ Y tế ra Thông tư hướng dẫn trong cả nước trên cơ sở rút kinh nghiệm ở hai thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Theo tinh thần của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng là giao cho Bộ Y tế ban hành quy chế tạm thời để thi hành trong cả nước và cuối năm 1988 Hội đồng Bộ trưởng sẽ ban hành quy chế chính thức sau một năm thực hiện trong cả nước. Vì vậy các Sở Y tế cần luôn luôn vừa làm vừa sơ kết, tổng kết gửi về Bộ y tế (Vụ Điều trị) để hoàn thiện quy chế khám chữa bệnh ngoài giờ.
Phạm vi tác động của khám chữa bệnh ngoài giờ mới giải quyết một phần cải thiện đời sống cho cán bộ ngành y tế thuộc hệ chữa bệnh, các dịch vụ y tế khác. Bộ Y tế sẽ tiếp tục nghiên cứu hướng dẫn để giải quyết tiếp. Phạm vi mở rộng khám, chữa bệnh ngoài giờ chủ yếu thích hợp ở khu vực đô thị, thị trấn, còn ở vùng cao, hải đảo, biên giới thì chưa có hình thức thích hợp. Bộ Y tế sẽ nghiên cứu hình thức thích hợp và hướng dẫn riêng.
Đặng Hồi Xuân (Đã ký) |
Thông tư 30-BYT/TT-1987 quy định tạm thời tổ chức khám bệnh ngoài giờ có quản lý do Bộ Y tế ban hành
- Số hiệu: 30-BYT/TT
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: 23/12/1987
- Nơi ban hành: Bộ Y tế
- Người ký: Đặng Hồi Xuân
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 1
- Ngày hiệu lực: 07/01/1988
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định