Hệ thống pháp luật

BỘ NỘI VỤ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 18-NV

Hà Nội, ngày 03 tháng 08 năm 1963

THÔNG TƯ

VỀ VIỆC THI HÀNH LUẬT TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN HÀNH CHÍNH CÁC CẤP

BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ

Kính gửi:

-Các ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố

Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp ban hành ngày 10-11-1962 có ý nghĩa quan trọng đối với việc kiện toàn chính quyền địa phương.

Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, dưới sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của Chính phủ trung ương, chính quyền địa phương có nhiệm vụ phát huy mọi khả năng của địa phương nhằm thực hiện những nhiệm vụ chung của Nhà nước, phát triển địa phương về mọi mặt và không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Sự hoạt động của chính quyền địa phương quán triệt mọi mặt đời sống của nhân dân. Chính quyền địa phương cần tích cực phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân và thực hiện chuyên chính mạnh mẽ đối với kẻ thù của nhân dân.

Để đáp ứng yêu cầu nói trên, luật xác định vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và lề lối làm việc của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp đúng với tính chất, chức năng, vai trò của Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, Ủy ban hành chính là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, đồng thời là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương. Luật quy định việc phân cấp quản lý cho các cấp nhằm phát huy tác dụng của chính quyền địa phương trong việc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, mở rộng sinh hoạt dân chủ trong các cơ quan Nhà nước và trong nhân dân, động viên nhân dân tham gia ngày càng đông đảo vào việc quản lý Nhà nước, xây dựng kinh tế, văn hóa và trấn áp kẻ thù của nhân dân.

Trong việc thi hành Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp, các Ủy ban hành chính cần chú ý những vấn đề sau đây:

I. VỀ NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN HÀNH CHÍNH CÁC CẤP

Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp đã được luật quy định. Nhưng đó chỉ mới là những điểm chủ yếu về từng mặt công tác. Các Ủy ban hành chính cần có sự hướng dẫn cụ thể của các Bộ và các ngành ở trung ương.

Riêng đối với cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, việc phân cấp quản lý về kinh tế và văn hóa đã được Nghị định số 94-CP ngày 27-8-1962 của Hội đồng Chính phủ quy định. Các Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần căn cứ vào những quy định trong luật và nghị định ấy và theo sự hướng dẫn của các Bộ, các ngành ở trung ương có liên quan để thi hành đúng nhiệm vụ, quyền hạn của cấp mình, đồng thời hướng dẫn cụ thể cho các cấp dưới thi hành đúng nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp.

Trong việc thực hiện nhiệm vụ; quyền hạn của các cấp, cần chú ý công tác kế hoạch Nhà nước và ngân sách Nhà nước. Đối với các công tác này, các Ủy ban hành chính căn cứ vào sự hướng dẫn của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và của Bộ Tài chính để thi hành.

II. VỀ VIỆC ĐẨY MẠNH SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP

Hội đồng nhân dân cần phải hoạt động mạnh mẽ, thiết thực, đúng với tính chất, chức năng là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Ủy ban hành chính, với cương vị là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, có trách nhiệm tạo điều kiện cần thiết cho Hội đồng nhân dân hoạt động theo đúng nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân.

1. Đối với hội nghị Hội đồng nhân dân.

Hội nghị Hội đồng nhân dân là hình thức hoạt động chủ yếu của Hội đồng nhân dân. Trong hội nghị, các đại biểu chính thức nói lên ý kiến nguyện vọng của nhân dân, tập thể bàn bạc và quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, giám sát công tác của Ủy ban hành chính và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban hành chính.

Ủy ban hành chính có nhiệm vụ triệu tập hội nghị Hội đồng nhân dân cấp mình đúng kỳ hạn và chuẩn bị tốt hội nghị Hội đồng nhân dân.

Cần phải chuẩn bị đầy đủ nội dung của hội nghị như báo cáo công tác, đề án về kế hoạch Nhà nước và về những vấn đề quan trọng khác của địa phương, dự toán và quyết toán ngân sách (hoặc dự toán, quyết toán chi) của địa phương, Ủy ban hành chính cần phải tập thể thông qua những vấn đề đó trước khi đưa ra trình hội nghị.

Để cho các đại biểu có thời gian chuẩn bị về phần mình. Ủy ban hành chính cần báo ngày họp và chương trình của hội nghị cho các đại biểu biết trước ít nhất là 10 ngày (đối với cấp họp 3 tháng 1 kỳ), hoặc ít nhất là 15 ngày, (đối với cấp họp 6 tháng 1 kỳ). Nơi nào có điều kiện thì gửi báo cáo và các đề án công tác cho các đại biểu nghiên cứu trước.

Cần thông báo ngày họp, nơi họp và chương trình họp Hội đồng nhân dân cho nhân dân địa phương biết trước trong thời hạn như đã nói trên, để nhân dân phản ánh ý kiến nguyện vọng của mình với các đại biểu và theo dõi hội nghị.

Trong hội nghị Hội đồng nhân dân, cần phải làm đúng những thủ tục của hội nghị đã được quy định, tránh tình trạng luộm thuộm như đã xẩy ra ở một số nơi trước đây. Khi họp, Hội đồng nhân dân bầu ra đoàn chủ tịch và đoàn thư ký của hội nghị. Thành viên của đoàn chủ tịch và đoàn thư ký phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Hội nghị phải có biên bản ghi chép những sự diễn biến của hội nghị và những nghị quyết về những vấn đề được biểu quyết. Các nghị quyết của hội nghị chỉ có giá trị khi được quá nửa tổng số đại biểu của Hội đồng nhân dân biểu quyết tán thành (chứ không phải chỉ là quá nửa số đại biểu có mặt trong buổi họp). Hội nghị biểu quyết bằng cách giơ tay, hoặc bỏ phiếu kín.

Cần phải triệt để phát huy dân chủ trong hội nghị, làm cho các đại biểu hăng hái tham gia thảo luận thực sự.

Sau hội nghị, Ủy ban hành chính gửi biên bản và các nghị quyết của hội nghị lên Ủy ban hành chính cấp trên trực tiếp trong thời hạn 15 ngày, để cấp trên có thể xem xét kịp thời. Đối với các cấp, khu tự trị, tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, những văn kiện đó phải gửi lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Phủ Thủ tướng và Bộ Nội vụ mỗi nơi một bản. Các đại biểu đi báo cáo nghị quyết của Hội đồng nhân dân trước cử tri và động viên cử tri thực hiện nghị quyết. Ủy ban hành chính có nhiệm vụ chấp hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân và đôn đốc, kiểm tra các ngành, các cấp, thuộc quyền chấp hành nghị quyết.

2. Đối với các ban của Hội đồng nhân dân.

Các ban là một hình thức hoạt động mới của Hội đồng nhân dân. Các ban góp phần tích cực vào việc đẩy mạnh sự hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân. Ban thu hút cả những người không phải là đại biểu Hội đồng nhân dân, nhưng có nhiệt tình và có nhiều kinh nghiệm về sản xuất, về công tác, về đời sống.

Nhiệm vụ của các ban của Hội đồng nhân dân là thường xuyên liên hệ với nhân dân để tìm hiểu ý kiến nguyện vọng của nhân dân và góp ý kiến với Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính trong việc xây dựng và thực hiện những chủ trương công tác của địa phương.

Theo luật quy định, các ban của Hội đồng nhân dân bao gồm có đại biểu Hội đồng nhân dân và có thể có người ngoài Hội đồng nhân dân. Số lượng thành viên của mỗi ban không nên quá nhiều mà chỉ nên có khoảng 10 người, trong đó quá nửa là đại biểu Hội đồng nhân dân. Tất cả thành viên của ban đều do Hội đồng nhân dân cử ra. Mỗi ban có một trưởng ban và một phó ban do Hội đồng nhân dân chỉ định và phải là đại biểu Hội đồng nhân dân.

Các ban phải hoạt động thiết thực. Do đó, không phải tất cả các Hội đồng nhân dân đều phải thành lập các ban như nhau. Việc thành lập các ban phải tùy theo nhu cầu công tác của từng địa phương và điều kiện hoạt động của các thành viên của các ban ở nơi đó. Nếu điều kiện hoạt động còn có khó khăn thì chưa nên thành lập ban ngay. Trong tình hình hiện nay, các ban nên thành lập trước hết ở các thành phố, thị xã, khu phố là những nơi mà các thành viên của ban ở gần nhau và có điều kiện thuận tiện để hoạt động. Ở cấp xã, các ban chuyên môn thuộc Ủy ban hành chính xã đã thu hút đại biểu Hội đồng nhân dân xã và những người tích cực trong xã tham gia công việc quản lý Nhà nước. Do đó, không cần thành lập các ban của Hội đồng nhân dân ở xã nữa, mà chỉ nên đưa thêm các đại biểu Hội đồng nhân dân vào các ban chuyên môn đó.

Trong lúc đầu mới thành lập, các ban nên làm những việc dễ làm nhưng có hiệu quả thiết thực, chủ yếu là những việc có quan hệ mật thiết đến đời sống xã hội mà nhân dân rất quan tâm như vấn đề y tế, giáo dục v.v…khi đã có kinh nghiệm thì có thể đề cập đến những vấn đề phức tạp hơn.

Hoạt động của các ban có tính chất xã hội. Thành viên của ban không thoát ly sản xuất hoặc công tác chuyên môn của mình. Ban không làm việc theo kiểu bàn giấy, nên không cần có trụ sở, văn phòng riêng. Khi cần thiết ban có thể họp để trao đổi về tình hình, về công tác hoặc để chuẩn bị cho hội nghị Hội đồng nhân dân. Sinh hoạt của ban cần hết sức nhẹ nhàng. Các ban không có quyền hạn về mặt hành chính, không có quyền ra mệnh lệnh, chỉ thị cho các cơ quan hành chính, mà chỉ có thể đề ra kiến nghị với Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính về những việc cần làm để cải tiến công tác và khắc phục khuyết điểm. Các ban chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân.

Ủy ban hành chính có nhiệm vụ giúp đỡ, theo dõi hoạt động của các ban, phổ biến cho các ban biết kịp thời các chủ trương, chính sách, thể lệ, chế độ có liên quan đến hoạt động của các ban. Các cơ quan, xí nghiệp ở địa phương có nhiệm vụ giúp đỡ các ban trong khi các ban đến liên hệ để tìm hiểu tình hình thuộc phạm vi công tác của ban.

3. Đối với các đại biểu Hội đồng nhân dân.

Ủy ban hành chính cần liên hệ chặt chẽ với các đại biểu Hội đồng nhân dân, có kế hoạch giúp đỡ các đại biểu nắm được các chủ trương, chính sách, luật lệ của Nhà nước, và tạo điều kiện cho các đại biểu hoạt động tốt trong hội nghị Hội đồng nhân dân, trong các ban của Hội đồng nhân dân, trong các ban của Hội đồng nhân dân, trong các tổ đại biểu và trong các cơ sở sản xuất.

Cần phải tôn trọng quyền chất vấn của các đại biểu. Đại biểu sử dụng quyền chất vấn trong hội nghị Hội đồng nhân dân để chất vấn Ủy ban hành chính và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính có trách nhiệm trả lời nghiêm chỉnh những câu chất vấn đó. Theo sự quyết định của đoàn chủ tịch, Ủy ban hành chính trả lời trước hội nghị Hội đồng nhân dân hoặc trả lời riêng cho những đại biểu đã chất vấn.

Tùy theo tình hình của địa phương, các đại biểu ở trong một đơn vị bầu cử có thể hợp thành tổ đại biểu để cùng nhau trao đổi tình hình, ý kiến, kinh nghiệm, nghe phổ biến chủ trương, chính sách và phối hợp hoạt động với nhau (nếu đơn vị quá rộng thì có thể lập ra hai hoặc nhiều tổ gồm những đại biểu ở gần nhau).

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC VÀ CHẾ ĐỘ LÀM VIỆC CỦA ỦY BAN HÀNH CHÍNH

Cần kiện toàn Ủy ban hành chính, làm cho Ủy ban hành chính tập trung thống nhất được mọi mặt công tác chính quyền ở địa phương, chỉ đạo chặt chẽ các cơ quan chuyên môn, lãnh đạo sát các cơ quan chính quyền cấp dưới.

Trong việc kiện toàn Ủy ban hành chính, cần chú ý những vấn đề sau đây:

1. Về số lượng thành viên của Ủy ban hành chính các cấp.

Luật đã quy định số lượng thành viên tối thiểu và tối đa ở mỗi cấp Ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính cần phải căn cứ vào khối lượng công tác, yêu cầu lãnh đạo và đặc điểm của địa phương mình mà đề nghị với Hội đồng nhân dân cấp mình quyết định số thành viên cần có trong phạm vi tối thiểu và tối đa ấy. Ủy ban hành chính cấp trên hướng dẫn cấp dưới trực tiếp trong việc ấn định số thành viên cụ thể của Ủy ban hành chính cấp dưới. Bộ Nội vụ tham gia ý kiến với các khu tự trị, tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương trong việc ấn định số thành viên cụ thể của Ủy ban hành chính các cấp này.

Để Ủy ban hành chính có đủ thành viên hoạt động một cách thiết thực, không nên bầu vào Ủy ban hành chính những người đau yếu phải nghỉ lâu ngày, những người đang hoặc sắp đi học phải vắng mặt trên một phần ba nhiệm kỳ của Ủy ban hành chính.

2. Về nguyên tắc làm việc tập thể của Ủy ban hành chính.

Luật đã quy định: các Ủy ban hành chính làm việc theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, phân công phụ trách. Mỗi thành viên của Ủy ban hành chính chịu trách nhiệm chung về công tác của Ủy ban hành chính, và chịu trách nhiệm riêng về phần công tác của mình. Công tác các Ủy ban hành chính có thể chia thành 5 khối như sau: khối nông nghiệp, khối tài chính thương nghiệp, khối công nghiệp, khối nội chính, khối văn xã.

- Chủ tịch thay mặt Ủy ban hành chính lãnh đạo mọi mặt công tác của Ủy ban hành chính và đặc biệt chú ý đến công tác trung tâm hoặc đột xuất lớn trong từng thời gian. Nếu cần thiết, chủ tịch có thể trực tiếp chỉ đạo một khối công tác của Ủy ban hành chính. Khi chủ tịch phải vắng mặt từ một tháng trở lên thì Ủy ban hành chính ủy nhiệm một phó chủ tịch làm quyền chủ tịch. Nếu chỉ vắng mặt một thời gian ngắn (dưới một tháng), thì chủ tịch ủy nhiệm một phó chủ tịch tạm thay. Việc ủy nhiệm tạm thay này phải đem báo cáo với Ủy ban hành chính trong kỳ họp gần nhất;

- Các phó chủ tịch giúp chủ tịch lãnh đạo công tác của Ủy ban hành chính và trực tiếp chỉ đạo các khối công tác của Ủy ban hành chính.

Đối với cấp xã, nơi nào có nhiều phó chủ tịch thì có thể có phó chủ tịch được phân công phụ trách thôn, xóm, hoặc một công tác cụ thể chứ không nhất thiết tất cả các phó chủ tịch đều ở trong bộ phận chuyên trách của xã;

- Ủy viên thư ký lãnh đạo văn phòng của Ủy ban hành chính, giải quyết công việc hàng ngày của Ủy ban hành chính dưới sự lãnh đạo của chủ tịch và các phó chủ tịch. Ủy viên thư ký nắm chắc chương trình công tác của Ủy ban hành chính, chuẩn bị các cuộc hội nghị của Ủy ban hành chính, giúp Ủy ban hành chính theo dõi, đôn đốc công tác của các ngành, các cấp, thuộc Ủy ban hành chính. Để làm tròn những nhiệm vụ quan trọng ấy, ủy viên thư ký phải là người có uy tín, có năng lực và từ cấp huyện trở lên, ủy viên thư ký không kiêm nhiệm chức trưởng một cơ quan chuyên môn nào. Trường hợp cần thiết, ủy viên thư ký cũng có thể được phân công phụ trách thêm một khối công tác. Riêng ở cấp xã, ủy viên thư ký phải phụ trách khối và làm trưởng các ban trong khối mình phụ trách;

- Việc phân công các ủy viên khác của Ủy ban hành chính phải căn cứ vào số lượng ủy viên, tình hình công tác, đặc điểm của địa phương. Các ủy viên có thể được phân công cùng các thành viên của bộ phận thường trực phụ trách các khối công tác, hoặc mỗi ủy viên phụ trách một công tác, một địa phương, hoặc đi kiểm tra. Nếu thật cần thiết, ủy viên cũng có thể được Ủy ban hành chính đề nghị bổ nhiệm làm trưởng một ngành chuyên môn thuộc Ủy ban hành chính.

Chủ tịch, các phó chủ tịch, ủy viên thư ký hợp thành bộ phận thường trực của Ủy ban hanh chính để thay mặt Ủy ban hành chính lãnh đạo mọi công tác giữa hai kỳ họp của Ủy ban hành chính. Cụ thể là bộ phận thường trực chấp hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân, nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông tư của Ủy ban hành chính cấp mình và của cơ quan Nhà nước cấp trên, triệu tập hội nghị toàn thể của Ủy ban hành chính, báo cáo công tác và những việc mà mình đã quyết định trước hội nghị toàn thể.

Để kiện toàn Ủy ban hành chính, trước hết phải chú trọng kiện toàn bộ phận thường trực cho mạnh, không để thiếu một thành viên nào của bộ phận thường trực, không để phó chủ tịch kiêm ủy viên thư ký, không để ủy viên thư ký kiêm chánh văn phòng Ủy ban hành chính. Chỉ trong trường hợp thật cần thiết và Ủy ban hành chính có nhiều phó chủ tịch thì mới phân công một phó chủ tịch kiêm ủy viên thư ký.

3. Xét và giải quyết các việc khiếu nại, tố cáo của nhân dân.

Ủy ban hành chính các cấp có nhiệm vụ xét và giải quyết nhanh chóng những việc khiếu nại và tố cáo của nhân dân. Việc này có ý nghĩa chính trị quan trọng. Nó giúp Ủy ban hành chính phát hiện và sửa chữa kịp thời những sai sót của cơ quan Nhà nước để bảo đảm quyền lợi chính đáng của nhân dân, đồng thời giúp Ủy ban hành chính thông qua việc tổng hợp, phân tích các việc khiếu nại, tố cáo, tìm ra những khâu yếu trong công tác của bộ máy Nhà nước để đặt phương hướng và biện pháp cải tiến .

Ở cấp xã và thị trấn, chủ tịch hoặc phó chủ tịch Ủy ban hành chính trực tiếp phụ trách công tác xét và giải quyết các việc khiếu nại, tố cáo của nhân dân.

Từ cấp huyện trở lên, ủy viên thư ký được Ủy ban hành chính phân công phụ trách việc đó. Đối với những việc quan trọng, Ủy ban hành chính hoặc bộ phận thường trực phải tập thể xét và giải quyết. Để tiện cho nhân dân khi cần đến gặp Ủy ban hành chính, cũng như tiện cho Ủy ban hành chính trong việc tiếp xúc với nhân dân, ủy viên thư ký cần dành một ngày hoặc một buổi nhất định trong mỗi tuần lễ để tiếp nhân dân. Chủ tịch và các phó chủ tịch cũng cần sắp xếp công việc của mình để có thể tiếp nhân dân trong những ngày nhất định.

Ủy ban hành chính cần phải chú ý kiểm tra đôn đốc các ngành, các cấp, thuộc quyền trong việc xét và giải quyết các việc khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Ba tháng một lần, Ủy ban hành chính báo cáo lên cấp trên trực tiếp tình hình việc khiếu nại, tố cáo của nhân dân ở địa phương mình và công tác của Ủy ban hành chính về vấn đề này.

Để cho việc thi hành Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp đạt được kết quả tốt, cần phải hết sức coi trọng việc tuyên truyền, phổ biến luật sâu rộng trong các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể nhân dân và trong nhân dân.

Các cấp chính quyền ở địa phương có nhiệm vụ nghiên cứu để thấu suốt nhiệm vụ, quyền hạn; tổ chức và chế độ làm việc của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính, chủ yếu là nắm vững nhiệm vụ, quyền hạn của cấp mình. Trong khi nghiên cứu luật này, cần phải liên hệ đến nhận thức của mình đối với chức năng, vai trò của tổ chức chính quyền địa phương nói chung và đối với Hội đồng nhân dân nói riêng, đồng thời phải kiểm điểm về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính cấp mình, để trên cơ sở đó đặt ra kế hoạch cải tiến công tác, cải tiến tổ chức bộ máy và cải tiến lề lối làm việc, nhằm đẩy mạnh sự hoạt động của Hội đồng nhân dân và của Ủy ban hành chính.

Việc tuyên truyền, phổ biến luật trong nhân dân cần được tiến hành bằng nhiều cách, dưới nhiều hình thức. Thông qua sự hoạt động của Hội đồng nhân dân và nhất là trong các dịp bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, các Ủy ban hành chính cần chú ý tuyên truyền, giới thiệu luật nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân về Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp, cũng như về trách nhiệm của mọi người đối với chính quyền dân chủ nhân dân và pháp luật của Nhà nước.

Các Ủy ban hành chính khu tự trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cần có kế hoạch và biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng nhân dân và kiện toàn tổ chức chính quyền địa phương các cấp. Trong vấn đề này, việc theo dõi rút kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động của các Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp là quan trọng. Mỗi Ủy ban hành chính khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần tổ chức chỉ đạo riêng một số huyện và xã để rút kinh nghiệm lãnh đạo chung. Ban tổ chức và dân chính của các Ủy ban hành chính có nhiệm vụ giúp Ủy ban hành chính thực hiện công tác này.

BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ




Ung Văn Khiêm

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Thông tư 18-NV năm 1963 thi hành Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp do Bộ Nội vụ ban hành

  • Số hiệu: 18-NV
  • Loại văn bản: Thông tư
  • Ngày ban hành: 03/08/1963
  • Nơi ban hành: Bộ Nội vụ
  • Người ký: Ung Văn Khiêm
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 30
  • Ngày hiệu lực: 18/08/1963
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản