Hệ thống pháp luật

BỘ THUỶ LỢI
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 16-TL-TT

Hà Nội, ngày 11 tháng 06 năm 1964

THÔNG TƯ

VỀ VIỆC THỰC HIỆN ĐỊNH MỨC NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG

Kính gửi:

- Các Cục, Vụ, Viện, Công ty xây lắp,
- Các Ty Thủy lợi,
- Các công trường thủy lợi,

Ngày 25-07-1961 Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã ban hành định mức 69-UB-CQL để áp dụng cho các công trình xây dựng của ngành thủy lợi.

Qua ba năm thi hành bản định mức 69-UB-CQL, nhờ sự lãnh đạo của các cấp và tinh thần phấn đấu không ngừng của cán bộ, công nhân, dân công trong phong trào hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật, nên năng suất lao động của công nhân, dân công đã có nhiều tiến bộ. Đến nay, nhiều đơn vị sản xuất trên công trường đã đạt và vượt định mức Nhà nước, có nơi đã vượt từ 30 đến 100%; phần lớn các đội làm thủy lợi của hợp tác xã đều đạt năng suất làm đất cao hơn dân công đi làm nghĩa vụ cá thể.

Trước tình hình ấy, để bảo đảm tính chất tiền tiến của công tác định mức đối với xây dựng cơ bản của ngành thủy lợi, Bộ đề nghị và đã được Ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước ban hành tập định mức năng suất lao động mới số 236-UB-ĐM(1)ngày 01-04-1964 đã thay thế tập định mức cũ (số 69-UB-CQL ngày 25-07-1961).

Để các Cục, Vụ, Viện, Công ty, các địa phương, các công trường phát huy tinh thần tích cực thực hiện những chỉ tiêu định mức mới, Bộ thấy cần nhắc thêm những điểm sau đây:

A. TÍNH CHẤT, NỘI DUNG ĐỊNH MỨC NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG MỚI VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH ĐỂ ÁP DỤNG.

I. Tính chất và nội dung định mức mới.

Bản định mức năng suất lao động mới số 236-UB-ĐM dùng để lập kế hoạch, lập đơn giá, lập dự toán công trình và thanh quyết toán với đơn vị thi công, làm cơ sở để khoán công, thực hiện lương sản phẩm cho công nhân, dân công trên các công trường.

Bản định mức số 236-UB-ĐM có 892 chỉ tiêu công tác được sắp xếp như sau:

1. Công tác chuẩn bị công trường gồm có:

- Công tác phát rừng, dọn bãi, chặt cây, đào gốc;

- Làm đường giao thông;

- Làm lán trại;

- Phá công trình cũ.

2. Công tác làm đất gồm có:

- Đào;

- Xúc;

- San vằm;

- Đầm;

- Phơi, sấy;

- Đổ đất trong nước.

3. Công tác cốt thép.

4. Công tác mộc.

5. Công tác xây, trát, láng, miết mạch, ne chi.

6. Những công tác khác:

- Công tác đóng cọc, đóng cừ;

- Công tác làm khớp nối;

- Công tác làm tầng lọc;

- Công tác quét vôi hay nước xi-măng, nhựa đường;

- Công tác sơn các loại;

- Công tác trồng cỏ, bỏ đá, bỏ rồng tre.

7. Công tác vận chuyển:

- Vận chuyển bằng gánh;

- Vận chuyển bằng xe cút-kít;

- Vận chuyển bằng xe ba-gác;

- Vận chuyển bằng goông;

- Vận chuyển bằng thuyền;

- Bốc dỡ vật liệu lên xuống ô-tô.

Ngoài các phần chỉ tiêu quy định về công vận chuyển ở từng loại cự ly v.v... còn quy định một bảng hệ số để tính toán cự ly, tính công ở những trường hợp đặc biệt.

Tất cả các loại chỉ tiêu công tác đều có quy định điều kiện làm việc, điều kiện kỹ thuật để bảo đảm chất lượng trong khi thực hiện định mức năng suất lao động.

Bản định mức mới này là kết quả sau một thời gian nghiên cứu tại một số công trình trên dưới hạng ngạch do Bộ quản lý.

II. Những quy định áp dụng.

1. Bản định mức này thay thế tập định mức 69-UB-CQL ngày 25-07-1961 và bắt đầu áp dụng từ ngày 01-07-1964. Riêng đối với những công nhân mà thời gian để hoàn thành chỉ còn trong vòng một quý thì cứ áp dụng định mức cũ để thanh quyết toán.

Những công trình đang xây dựng mà khối lượng còn nhiều, thời gian để hoàn thành công trình còn phải kéo dài trên một quý, thì đến ngày 30-06-1964, A và B phải làm kiểm kê những khối lượng đã làm xong để thanh quyết toán theo định mức cũ, những khối lượng nào chưa làm phải chuyển qua làm từ 01-07-1964 thì dự toán cũng như thanh quyết toán sau này theo định mức mới (số 236-UB-ĐM) – Trong đó có những hạng mục công trình đang làm dở nếu khối lượng công việc còn ít thì tất cả khối lượng hạng mục công trình này được thanh quyết toán theo định mức cũ.

2. Bắt đầu từ 01-07 các công trường, công ty lấy định mức mới (số 236-UB-ĐM) để làm cơ sở khoán công và thực hiện lương sản phẩm cho công nhân, dân công.

Trong quá trình thi công, nếu những chỉ tiêu năng suất nào mà công nhân đã vượt một cách thường xuyên, dễ dàng thì công ty, công trường cùng đại biểu công đoàn và cơ quan lao động địa phương nghiên cứu để nâng chỉ tiêu năng suất lên một bước.

- Thời gian quy định thay đổi mức ở công trường là từ bốn đến sáu tháng kể từ khi công nhân đã vượt mức.

- Mức nâng cao trong mỗi lần không được quá mức mà công nhân đã đạt. Như thế, để bảo đảm thu nhập cho người lao động, làm cho anh chị em phấn khởi đưa hiệu suất lao động lên cao không ngừng.

Riêng đối với chỉ tiêu làm đất của dân công khi thấy cần nâng lên, so với chỉ tiêu định mức Nhà nước, thì công trường và địa phương có nhiệm vụ nghiên cứu và báo cáo về Bộ.

3. Trong quá trình thi công gặp những trường hợp mà định mức số 236-UB-ĐM chưa có chỉ tiêu định mức để làm dự toán hoặc khoán công cho công nhân thì công ty, công trường, địa phương (kể cả đội công trình địa phương) có nhiệm vụ xây dựng nên chỉ tiêu năng suất báo cáo về Bộ.

4. Công ty, công trường, các đội công trình có trách nhiệm thống kê theo dõi việc thi hành định mức, hàng tháng báo cáo về Bộ.

B. Các biện pháp để thực hiện.

Để bảo đảm việc thi hành định mức của Nhà nước, đồng thời đẩy mạnh năng suất lao động không ngừng tăng lên, Bộ lưu ý các công trường mấy điểm sau đây:

1. Phải tăng cường công tác tư tưởng trong cán bộ và công nhân, dân công làm cho anh chị em công nhân, dân công thấy rõ ý nghĩa của việc thực hiện định mức năng suất lao động mới, anh chị em công nhân, dân công lấy định mức mới làm mục tiêu phấn đấu thi đua, hoàn thành kế hoạch và hạ giá thành. Trong khi phát động thi đua đẩy mạnh tăng năng suất phải coi trọng lãnh đạo công nhân, dân công chấp hành đúng quy phạm kỹ thuật thi công và định mức vật liệu, chú trọng khắc phục mọi biểu hiện xem nhẹ vấn đề hạ giá thành trong xây dựng cơ bản.

Công trường, công ty, địa phương, các đội công trình phải có tổ chức nhóm tổ theo dõi việc thực hiện định mức hoặc có người chuyên trách theo dõi.

2. Để thực hiện tốt định mức năng suất lao động mới các công trường, công ty, địa phương, các đội công trình cần lấy điểm chỉ đạo diện, các cán bộ phụ trách phải nghiên cứu liên hệ xem đơn vị mình có mặt nào yếu để có kế hoạch bổ khuyết như: bố trí lao động, hợp lý hóa tổ chức, sắp xếp lại dụng cụ, dùng công cụ cải tiến, chuẩn bị vật liệu đầy đủ...

Trong quá trình thực hiện phải có tổ chức học tập điển hình, bồi dưỡng điển hình, rút kinh nghiệm, phổ biến kinh nghiệm kịp thời, có như vậy mới đẩy mạnh phong trào tăng năng suất.

3. Chú ý khen thưởng và trả thù lao tăng năng suất kịp thời, cần mở rộng diện làm khoán và trả lương theo sản phẩm cho các loại công việc trên các công trường.

4. Các công trường cần chú ý thi hành đầy đủ các chế độ bảo đảm an toàn lao động, bảo vệ sức khỏe và quyền lợi học tập v.v... cho cán bộ, công nhân, dân công để tăng thêm lòng phấn khởi trongcông tác.

5. Trong quá trình thực hiện định mức cáo ty, các công trường, công ty cần nghiên cứu kỹ tính chất công tác, điều kiện làm việc, áp dụng đúng các chỉ tiêu định mức để tăng thêm lòng tin tưởng của công nhân, dân công đối với các chỉ tiêu định mức của Nhà nước đã quy định. Các công trường đều thực hiện đúng chỉ tiêu định mức Nhà nước sẽ không xảy ra tình trạng công nhân, dân công suy bì giữa công trường nọ với công trường kia, giữa công trường địa phương với công trường trung ương.

Công tác xây dựng cũng như việc thực hiện các chỉ tiêu định mức năng suất lao động là một cuộc vận động quần chúng sâu rộng, cuộc đấu tranh giữa cái mới và các cũ, nó đòi hỏi sự lãnh đạo chặt chẽ giữa các cấp. Do đó, Bộ đề nghị các Cục, Vụ, Viện, Công ty, các Ty, các công trường cần chú ý những biện pháp trên để thúc đẩy công trường, đơn vị thực hiện tốt bản định mức mới.

K.T. BỘ TRƯỞNG BỘ THỦY LỢI
THỨ TRƯỞNG




Nguyễn Như Quỳ


(1)Bản định mức không đăng Công báo.

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Thông tư 16-TL-TT-1964 thực hiện định mức năng suất lao động do Bộ Thủy lợi ban hành

  • Số hiệu: 16-TL-TT
  • Loại văn bản: Thông tư
  • Ngày ban hành: 11/06/1964
  • Nơi ban hành: Bộ Thuỷ lợi
  • Người ký: Nguyễn Như Quý
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 25
  • Ngày hiệu lực: 26/06/1964
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản