Hệ thống pháp luật
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...

BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN-BỘ LAO ĐỘNG-BỘ TÀI CHÍNH
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 13-TT-LB

Hà Nội, ngày 20 tháng 08 năm 1956 

 

THÔNG TƯ

GIẢI THÍCH VÀ HƯỚNG DẪN VIỆC THI HÀNH CÁC KHOẢN PHỤ CẤP CHO LÁI XE VÀ PHỤ LÁI XE Ô TÔ

BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG-BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN-BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH

Kính gửi:
Đồng kính gửi:

- Các ông Chủ tịch Uỷ ban hành chính Liên khu 3, 4, Việt bắc, Khu tự trị Thái – Mèo, Hồng - quảng, Hà Nội, Hải Phòng.
- Các vị Bộ trưởng các Bộ

 

Chế độ “phụ cấp đặc biệt” của lái xe, phụ lái xe ô tô … ấn định trong nghị định Liên Bộ số 52-NĐ-LB ngày 4-7-1954 và số 42-LB-NĐ ngày 29-8-1954 lâu nay thi hành không thống nhất và có nhiều lệch lạc. Có ngành, hễ xe lăn bánh là cho anh em hưởng phụ cấp đặc biệt, mặc dầu có khi chỉ lái một chiếc xe con hay xe hàng vừa xung quanh thành phố, không phải ăn một bữa cơm nào ở ngoài, không nặng nhọc và tốn kém gì hơn một công nhân ở xí nghiệp. Có ngành lại tự ý năng phụ cấp khá cao (1kg600-2kg100) hàng tháng cho anh em lĩnh 2, 3 vạn đồng, ngang lương hoặc cao hơn lương bản thân. Sự thi hành lệch lạc và không thống nhất đó gây tình trạng suy lị, thắc mắc trong anh em lái xe và phụ xe, đồng thời ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa và kế hoạch vận chuyển.

Mặt khác, chế độ “phụ cấp đặc biệt” nói trên đến nay xét có những điểm không thích hợp với điều kiện giao thông vận tải mới đã có nhiều thuận lợi hơn.

Để bổ cứu tình trạng trên, Liên Bộ đã ban hành nghị định số 89-NĐ-LB ngày 20-8-1956 nhầm sửa đổi và quy định cụ thể chế độ phụ cấp cho công nhân lái xe và phụ xe ô tô và cán bộ phụ trách các đoàn xe.

Nghị định Liên bộ số 89-NĐ-LB ngày 20-8-1956 bãi bỏ phụ cấp đặc biệt và cho anh em hưởng các khoản phụ cấp sau đây:

1- Phụ cấp đi đường 100đ một ngày nếu phải ăn cơm ở ngoài.

2- Phụ cấp bồi dưỡng sức khoẻ chỉ trả cho công nhân phụ và lái xe lớn (xe hàng vừa có kéo “rơ moóc” hoặc chạy trên đường Tây bắc, xe than, xe cần trục cũng coi như xe hàng lớn).

3- Phụ cấp làm thêm giờ chỉ áp dụng cho các loại xe vận tải.

Thông tư này nhầm giải thích và hướng dẫn thi hành các khoản phụ cấp nói trên.

I. PHỤ CẤP ĐI ĐƯỜNG

Phụ cấp đi đường nhầm chiếu cố đến sự chi tiêu tốn kém dọc đường nên thi hành thống nhất cho tất cả cán bộ và công nhân đoàn xe: là 400đ một ngày, 200đ nửa ngày.

Phụ cấp đi đường sẽ căn cứ vào số bữa cơm chính phải ăn ở ngoài, cụ thể nếu ăn hai bữa cơm chính ở ngoài thì được tính một ngày (400đ) ăn một bữa cơm chính ở ngoài được tính ½ ngày (200đ).

Trường hợp xe chạy đường trường từ 100 cây số trở lên, thì mặc dầu đã ăn cơm ở cơ quan nhưng nếu đã chạy trên 150 km cũng được tính ½ ngày và 300 km được tính cả ngày. Thí dụ: một người lái xe đã ăn cơm trưa ở Hà Nội lúc 11 giờ, đến 12 giờ bắt đầu lái xe đi Hải Phòng, rồi trở về Hà Nội ăn cơm lúc 6 giờ chiều. Mặc dầu ăn hai bữa cơm chính ở cơ quan, nhưng cũng được hưởng phụ cấp đi đường 200đ, vì xe đã chạy trên 150 km (Hà Nội - Hải Phòng 105 Km đi và về 210 km). Đối với những quãng đường dưới 100km (thí dụ: xe chạy xung quanh thành phố) căn cứ vào bữa cơm ăn ngoài là chính, không căn cứ theo cây số.

Phụ cấp đi đường cho lái xe và phụ lái xe các thủ trưởng các cơ quan ấn định trong thông tư Liên Bộ Lao động – Giao thông và Bưu điện – Tài chính số 1-TT-LB ngày 6-10-1955 vẫn thi hành như trước.

II. PHỤ CẤP BỒI DƯỠNG SỨC KHOẺ

Trong tiền lương hiện nay đã có chiếu cố đến công việc có tính chất nặng nhọc vất vả. Cho nên phụ cấp này chỉ đặt ra đối với những trường hợp thật cần thiết, công việc rất vất vả nặng nhọc, hao tổn sức khoẻ nhiều. Nói chung nó chỉ áp dụng đối với lái và phụ xe lớn.

Phụ cấp này chỉ làm hai mức:

- 300đ một ngày, 150đ ½ ngày cho anh em lái xe lớn kéo “rơ moóc” lái cần trục và điều khiển cần trục 200đ một ngày và 100đ một ngày cho phụ lái xe. Loại này thường thường nặng đến 20T, 30T cho nên được hưởng một mức riêng.

- 200đ một ngày, 100đ ½ ngày cho anh em lái và 150đ một ngày, 80đ ½ ngày cho phụ lái xe lớn (từ 7 tấn trở lên), xe hạng vừa (trung xa) chạy trên đường Tây bắc (có nhiều đèo dốc) và xe than. Những người lái xe cần trục hoặc điều khiển cần trục (làm một trong hai việc đó) cũng được hưởng phụ cấp 200đ một ngày, 100đ ½ ngày.

Lái và phụ lái xe các xe con hoặc các xe hàng vừa (trung xa) không có “rơ moóc” chạy các đường nói chung (ngoài đường Tây bắc) đều không hưởng phụ cấp nói trên.

- Xe chạy từ 6 giờ trở lên được tính một ngày.

- Xe chạy từ 3 giờ đến dưới 6 giờ được tính ½ ngày.

- Xe chạy dưới 3 giờ không tính.

Bắt đầu từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng, cứ mỗi giờ chạy thêm được tính thành một giờ rưỡi để tính phụ cấp bồi dưỡng.

Thì giờ chờ đợi nói chung không được tính. Trừ những trường hợp chờ đợi dưới một tiếng để lui xe vào, lên xuống khi bốc hàng, đỡ hàng, khi lên phà, xuống phà,… thì được tính để trả phụ cấp bồi dưỡng.

III. PHỤ CẤP LÀM THÊM GIỜ

Tính chất công việc lái xe không liên tục và không có thì giờ nhất định như ở xí nghiệp. Có khi trong hai, ba ngày xe chạy cả ngày đêm nhưng rồi lại nghĩ luôn một, hai ngày để chờ hàng. Ngày nghỉ cũng không nhất thiết bố trí được vào ngày chủ nhật. Do điều kiện đặc biệt như trên, cho nên phụ cấp làm thêm giờ không thể tính từng ngày hay từng tuần mà phải tính theo tháng. Ngày này bù cho ngày kia, tuần trước bù cho tuần sau, nếu tính đến cuối tháng làm quá số giờ nhất định thì anh em được hưởng phụ cấp làm thêm giờ.

Thí dụ:

Giờ chính thức của đoàn xe A là 8 giờ mỗi ngày (giờ chính thức do từng ngành quyết định tuỳ theo tính chất công việc và hoàn cảnh cụ thể của mỗi ngành trong phạm vi từ 8 đến 10 giờ).

- Tháng 5-1956 có 31 ngày, trừ 4 ngày chủ nhật và 2 ngày lễ, còn 25 ngày làm việc. Tổng số giờ làm việc trong tháng là: 8 giờ X 25 = 200 giờ. Mặc dầu trong tháng có ngày anh em phải làm việc đến 10, 11 giờ nhưng nếu tổng số giờ làm việc không quá 200 giờ thì không hưởng phụ cấp làm thêm giờ. Nếu làm ít giờ hơn, không phải làm bù qua tháng sau. Vì số giờ làm việc tính hàng tháng nên tất cả số giờ làm thêm trong một tháng đều tính như giờ làm ban ngày (không thêm 25% hay 100% mặc dầu có ngày xe phải chạy ban đêm).

Tất cả thì giờ chờ đợi, lau chùi xe, sửa chữa xe, bốc hàng, đỡ hàng,… đều tính là giờ làm việc. Chí trừ trường hợp công nhân được cơ quan, xí nghiệp báo trước cho ở nhà thì mới không tính là giờ làm việc. Thí dụ: từ 9 giờ công nhân phải có mặt ở xí nghiệp nhưng phải chờ đến 11 giờ mới chuẩn bị xong để cho xe chạy thì giờ chờ đợi 9 giờ đến 11 giờ vẫn tính là thì giờ làm việc.

Các chế độ trả phụ cấp trên đây chỉ áp dụng đối với các loại xe vận tải không thi hành đối với xe các vị thủ trưởng, các chuyên gia, nhân viên Uỷ ban Quốc tế,… Chế độ phụ cấp cho lái xe các vị thủ trưởng, các chuyên gia sẽ do Liên Bộ quy định sau.

Chế độ này thi hành thống nhất cho các đoàn xe vận tải các xí nghiệp, doanh nghiệp, các đoàn xe kể từ ngày ban hành. Nhưng sau khi tiếp được nghị định và thông tư Liên Bộ nếu có trường hợp anh em lãnh phụ cấp theo chế độ cũ cao hơn chế độ này thì không đặt vấn đề truy nạp. Trái lại nếu tính thấp hơn chế độ mới thì cho anh em truy lĩnh từ ngày ban hành.

Trong khi thi hành các ngành, các địa phương gặp những khó khăn gì, yêu cầu báo cáo kịp thời cho Liên Bộ để giải quyết.

QUYỀN BỘ TRƯỞNG
BỘ LAO ĐỘNG





Lê Văn Hiến

K/T BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG




Trịnh Văn Bính

K/T BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG
VÀ BƯU ĐIỆN
THỨ TRƯỞNG



Nguyễn Hữu Mai