BỘ NỘI VỤ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 03-NV | Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 1970 |
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THI HÀNH VIỆC BỔ SUNG CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP ĐỐI VỚI CON LIỆT SĨ VÀ BỐ MẸ LIỆT SĨ QUY ĐỊNH TẠI QUYẾT ĐỊNH SỐ 185-CP NGÀY 25-9-1969 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Ngày 25-9-1969, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 185-CP về việc bổ sung một số chế độ đối với quân nhân, gia đình liệt sĩ và quân nhân đào ngũ, và giao cho Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành các khoản trợ cấp mới được bổ sung đối với gia đình liệt sĩ.
Sau khi trao đổi thống nhất ý kiến với các cơ quan có liên quan, Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành việc bổ sung chế độ trợ cấp đối với con liệt sĩ và đối với bố mẹ liệt sĩ quy định tại phần III của quyết định nói trên, còn việc thực hiện thống nhất chế độ trợ cấp tuất đối với gia đình liệt sĩ đã hy sinh trên tất cả các chiến trường, thì sẽ có văn bản hướng dẫn sau.
A. ĐỐI VỚI CON LIỆT SĨ
Tại Nghị định số 163-CP ngày 11-11-1967, Hội đồng Chính phủ đã quy định con của liệt sĩ (thuộc đối tượng được hưởng tiền tuất hàng tháng) mồ côi cả cha lẫn mẹ, được trợ cấp mỗi người mỗi tháng 12 đồng nếu sinh hoạt ở nông thôn hoặc 15 đồng nếu sinh hoạt ở nội thành các thành phố Hà Nội, Hải Phòng.
Nay, Hội đồng Chính phủ quyết định nâng trợ cấp hàng tháng đối với con liệt sĩ mồ côi cả cha lẫn mẹ và đối với con liệt sĩ hiện nay không có nơi nương tựa, lên 15 đồng, nếu sinh hoạt ở nông thôn hoặc 18 đồng nếu sinh hoạt ở nội thành các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, nhằm bảo đảm cho con liệt sĩ được nuôi dưỡng tốt.
1. Con liệt sĩ được hưởng mức trợ cấp quy định tại quyết định này là những con liệt sĩ thuộc diện được hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng (bao gồm con của liệt sĩ mới là quân nhân, công nhân, viên chức, dân quân, tự vệ, cán bộ chủ chốt ở xã, dân công phục vụ chiến trường quan trọng…), nếu có một trong những điều kiện dưới đây:
a) Mồ côi cả cha lẫn mẹ;
b) Hiện nay không có nơi nương tựa.
Được coi là không có nơi nương tựa, những trường hợp con của liệt sĩ còn có bố hoặc mẹ, nhưng trong thực tế người bố hoặc mẹ đó không có điều kiện vật chất để nuôi con như:
- Con liệt sĩ còn mẹ, nhưng mẹ đi lấy chồng khác, không có điều kiện nuôi con, để con lại cho người thân thuộc hoặc người khác nuôi;
- Con liệt sĩ còn bố hoặc mẹ, nhưng bố hoặc mẹ lại bị ốm đau, tàn tật mất hoàn toàn sức lao động không có khả năng phục hồi, hoặc mắc một bệnh truyền nhiễm, phải sống cách ly ở các trại điều dưỡng, không có điều kiện để nuôi con…
Đối với con liệt sĩ cũ và con liệt sĩ mới không thuộc diện hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng (như con của liệt sĩ là cán bộ không giữ chức vụ chủ chốt ở xã, là dân công, là người làm vận tải xếp dỡ, là nhân dân) nếu mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc không có nơi nương tựa, thì giải quyết theo chế độ trợ cấp khó khăn quy định tại Nghị định số 14-CP ngày 02-02-1961 của Hội đồng Chính phủ, không giải quyết theo quy định này.
2. Mức trợ cấp mới trên đây thi hành kể từ ngày 01-10-1969 trở đi.
3. Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố căn cứ vào chứng nhận của chính quyền cơ sở về con liệt sĩ mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc không có nơi nương tựa để xét giải quyết việc trợ cấp trên đây theo cách thức sau:
a) Đối với con liệt sĩ đã được hưởng trợ cấp sổ trợ cấp và đang hưởng tiền tuất:
- Nếu trước đây, trong hồ sơ đã có chứng nhận đầy đủ là con liệt sĩ mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc không có nơi nương tựa, thì ban thương binh xã hội ghi chứng nhận vào sổ trợ cấp cho con liệt sĩ được hưởng mức trợ cấp mới kể từ ngày 01-10-1969 trở đi.
- Nếu trong hồ sơ chưa có chứng nhận là con liệt sĩ mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc không có nơi nương tựa thì hướng dẫn Ủy ban hành chính xã cấp giấy chứng nhận rồi ra quyết định điều chỉnh mức trợ cấp mới và ghi vào sổ trợ cấp, sau đó gửi một bản quyết định kèm với giấy chứng nhận về Bộ Nội vụ để theo dõi và lưu hồ sơ.
b) Đối với con liệt sĩ đang hưởng tiền tuất bằng “phiếu lĩnh trợ cấp tạm thời” thì tuỳ từng trường hợp, cũng giải quyết theo cách thức nói trên và chờ khi cấp sổ chính thức, sẽ ghi chứng nhận mức trợ cấp mới vào sổ chính thức.
c) Đối với con liệt sĩ chưa có đầy đủ hồ sơ và chưa được hưởng trợ cấp thì hướng dẫn Ủy ban hành chính xã cấp ngay giấy chứng nhận tình hình thân nhân trong gia đình liệt sĩ, trong đó có ghi cụ thể là conliệt sĩ mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc không có nơi nương tựa, để có căn cứ xét giải quyết trợ cấp tiền tuất cho gia đình liệt sĩ.
B. ĐỐI VỚI BỐ MẸ LIỆT SĨ
Đối với gia đình liệt sĩ cũ, Chính phủ đã có Nghị định số 14-CP ngày 02-02-1962 về việc trợ cấp cho những gia đình gặp khó khăn trong đời sống đối với gia đình liệt sĩ mới đã có chế trợ cấp tiền tuất.
Nay, để cải thiện thêm một bước đời sống của gia đình liệt sĩ, Hội đồng Chính phủ lại quy định: “Đối với bố mẹ liệt sĩ không nơi nương tựa thì ngoài những khoản trợ cấp hiện hành theo điều lệ bảo hiểm xã hội hoặc theo Nghị định số 14-CP ngày 02-02-1962, nếu mức sống chưa đạt mức sống trung bình của nhân dân địa phương, thì Nhà nước sẽ trợ cấp thêm cho bằng mức sống đó”.
1. Đối tượng được xét giải quyết trợ cấp này là bố, mẹ của tất cả các liệt sĩ (bao gồm cả liệt sĩ cũ và liệt sĩ mới) không nơi nương tựa dù đã được trợ cấp theo Nghị định số 14-CP hoặc đã được hưởng tiền tuất một lần hay hàng tháng, nhưng đời sống còn gặp khó khăn, chưa đạt mức sống trung bình của nhân dân địa phương. Bố mẹ liệt sĩ không nơi nương tựa nói ở đây là những bố mẹ liệt sĩ già yếu, mất sức lao động, không có sự cung cấp thêm về vật chất của những người thân thuộc (kể cả trường hợp không còn con cái nào khác và trường hợp còn con, nhưng đời sống cuả con thiếu thốn, khó khăn, thực sự không có khả năng nuôi dưỡng bố mẹ).
2. Mức sống trung bình dùng làm căn cứ để giải quyết trợ cấp đối với bố mẹ liệt sĩ không nơi nương tựa là mức sống trung bình của nhân dân trong từng tỉnh, thành phố trong từng thời gian do chính quyền địa phương xác định (lấy mức sống trung bình của hộ ít người).
3. Việc trợ cấp cho bố mẹ liệt sĩ không nơi nương tựa do Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố xét quyết định và trích ở ngân sách địa phương, theo cách thức như sau:
a) Đối với bố mẹ liệt sĩ cũ và bố mẹ liệt sĩ mới không thuộc diện hưởng chế độ tiền tuất hàng tháng, thì trước hết phải dựa vào dân để bảo đảm đời sống cho các cụ; nếu còn thiếu, Nhà nước giải quyết trợ cấp theo Nghị định số 14-CP. Sau khi đã trợ cấp tới mức cao nhất (mỗi người mỗi năm được trợ cấp 12 tháng, mỗi tháng 10 đồng) mà vẫn chưa đạt mức sống trung bình thì trợ cấp thêm cho bằng mức sống đó. Trong trường hợp này, cần vận dụng cùng một lúc cả Nghị định số 14-CP và Quyết định số 185-CP để trợ cấp cho bố mẹ liệt sĩ được kịp thời, đúng mức, không nên giải quyết trợ cấp trước theo Nghị định số 14-CP, rồi sau đó lại trợ cấp tiếp theo Quyết định số 185-CP.
b) Đối với bố mẹ liệt sĩ mới đủ điều kiện được hưởng tiền tuất hàng tháng thì cần giải quyết ngay trợ cấp tiền tuất. Nếu sau khi đã được hưởng tiền tuất và được địa phương hết sức giúp đỡ rồi mà chưa đạt mức sống trung bình, thì sẽ trợ cấp thêm theo Quyết định số 185-CP để bảo đảm cho bố mẹ liệt sĩ có mức sống đó.
Đề nghị các Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố quan tâm thực hiện tốt các chế độ trợ cấp mới được bổ sung trên đây bảo đảm cho con liệt sĩ và bố mẹ liệt sĩ được hưởng đầy đủ quyền lợi một cách kịp thời, chính xác và chu đáo.
Trong khi thi hành, nếu có khó khăn, mắc mứu gì, thì phản ánh cho Bộ Nội vụ để nghiên cứu giải quyết.
Những quy định trước đây trái với Quyết định số 185-CP và thông tư này, nay đều bãi bỏ.
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ |
Thông tư 03-NV-1970 hướng dẫn thi hành Quyết định 185-CP-1969 bổ sung chế độ trợ cấp đối với con liệt sĩ và bố mẹ liệt sĩ do Bộ Nội vụ ban hành
- Số hiệu: 03-NV
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: 14/05/1970
- Nơi ban hành: Bộ Nội vụ
- Người ký: Lê Đình Thiệp
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 10
- Ngày hiệu lực: 29/05/1970
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định