Quyết định số 35/2022/DS-GĐT ngày 23/09/2022 của Tòa án nhân dân tối cao về tranh chấp về chia tài sản chung
Số quyết định: 35/2022/DS-GĐT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản chung
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Ngày ban hành: 23/09/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Tại đơn khởi kiện ngày 13/02/2015, đơn khởi kiện bổ sung ngày 19/3/2015
và quá trình tố tụng, nguyên đơn là anh Ngô Quốc T và là đại diện theo ủy quyền
của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Ngọc X, chị Ngô Thị
Diễm P, anh Ngô Quốc D, chị Ngô Thị Diễm H1, chị Ngô Thị Diễm T1, anh Ngô
Quốc H2 và chị Ngô Thị Diễm H (vợ con của ông Ngô Minh H7) trình bày:
Cụ Ngô Kim G (chết năm 2010) và cha của anh là ông Ngô Minh H7 (chết
năm 2014, con của cụ G) được thừa hưởng của gia tộc họ Ngô tạo lập được
3.930m2 đất, trên đất có ngôi chùa BST là nơi thờ cúng phật để tu tại gia và các
mộ phần của gia tộc họ Ngô. Do cụ G và ông H7 có hộ khẩu tại chùa nên ngày
02/01/2001 hộ cụ G được Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng công nhận quyền sử
dụng đất diện tích là 3.930m2 tọa lạc tại khóm M, phường N, thành phố ST, tỉnh
Sóc Trăng. Quá trình quản lý đất và ngôi chùa, cụ G phân chia đất cho em ruột
và các con một phần đất (chia cho cụ B 184m2, cụ T6 718m2 (là các em của cụ4
G), ông Q 140m2, ông P1 100,5m2, ông L1 49m2, bà H3 160,7m2, ông T2
124,1m2 và ông T3 62,1m2), diện tích đất còn lại là 2.656,2m2.
Cụ G có 09 người con gồm: Bà Ngô Thị Minh N, ông Ngô Minh H7, ông
Ngô Kim T3, ông Ngô Kim Q, ông Ngô Kim P1 (chết năm 2002), ông Ngô Tấn
L1, bà Ngô Thị Thanh H3, bà Ngô Thị Huỳnh M và ông Ngô Tấn T2. Cụ G chết
không để lại di chúc, sau khi cụ G chết thì diện tích đất và ngôi chùa do ông H7
quản lý. Ông H7 chết không để lại di chúc, vợ là bà Trần Ngọc X, ông H7 và bà
X có 07 người con chung là chị Ngô Thị Diễm P, anh Ngô Quốc D, chị Ngô Thị
Diễm H1, chị Ngô Thị Diễm T1, anh Ngô Quốc H2, anh Ngô Quốc T và chị Ngô
Thị Diễm H. Ông P1 chết, vợ là bà Trần Lệ A, các con là chị Ngô Thị Hồng N1,
chị Ngô Thị Hồng P2, chị Ngô Thị Hồng Đ.
Việc chính quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ cụ
G, thực tế là cấp cho cụ G và cha của anh là ông H7 vì cụ G và ông H7 có hộ
khẩu tại chùa. Do đó, diện tích đất và tài sản trên đất là di sản thừa kế của cụ G
và ông H7. Vì vậy anh đề nghị Tòa án giải quyết các yêu cầu sau:
1. Xác định diện tích đất 2.656,2m2, trên đất có ngôi chùa là di sản thừa kế
của cụ G và của ông H7.
2. Xác định những người thừa kế theo pháp luật của cụ G và của ông H7 là
vợ và các con ông H7 và là tài sản chung hợp nhất của các thừa kế là vợ, các con
của ông H7.
3. Buộc các bị đơn không được ngăn cản nguyên đơn thực hiện quyền của
chủ sở hữu tài sản và vào chùa BST để tu hành.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Quyết định số 35/2022/DS-GĐT ngày 23/09/2022 của Tòa án nhân dân tối cao về tranh chấp về chia tài sản chung
Số quyết định: 35/2022/DS-GĐT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản chung
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Ngày ban hành: 23/09/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Tại đơn khởi kiện ngày 13/02/2015, đơn khởi kiện bổ sung ngày 19/3/2015
và quá trình tố tụng, nguyên đơn là anh Ngô Quốc T và là đại diện theo ủy quyền
của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Ngọc X, chị Ngô Thị
Diễm P, anh Ngô Quốc D, chị Ngô Thị Diễm H1, chị Ngô Thị Diễm T1, anh Ngô
Quốc H2 và chị Ngô Thị Diễm H (vợ con của ông Ngô Minh H7) trình bày:
Cụ Ngô Kim G (chết năm 2010) và cha của anh là ông Ngô Minh H7 (chết
năm 2014, con của cụ G) được thừa hưởng của gia tộc họ Ngô tạo lập được
3.930m2 đất, trên đất có ngôi chùa BST là nơi thờ cúng phật để tu tại gia và các
mộ phần của gia tộc họ Ngô. Do cụ G và ông H7 có hộ khẩu tại chùa nên ngày
02/01/2001 hộ cụ G được Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng công nhận quyền sử
dụng đất diện tích là 3.930m2 tọa lạc tại khóm M, phường N, thành phố ST, tỉnh
Sóc Trăng. Quá trình quản lý đất và ngôi chùa, cụ G phân chia đất cho em ruột
và các con một phần đất (chia cho cụ B 184m2, cụ T6 718m2 (là các em của cụ4
G), ông Q 140m2, ông P1 100,5m2, ông L1 49m2, bà H3 160,7m2, ông T2
124,1m2 và ông T3 62,1m2), diện tích đất còn lại là 2.656,2m2.
Cụ G có 09 người con gồm: Bà Ngô Thị Minh N, ông Ngô Minh H7, ông
Ngô Kim T3, ông Ngô Kim Q, ông Ngô Kim P1 (chết năm 2002), ông Ngô Tấn
L1, bà Ngô Thị Thanh H3, bà Ngô Thị Huỳnh M và ông Ngô Tấn T2. Cụ G chết
không để lại di chúc, sau khi cụ G chết thì diện tích đất và ngôi chùa do ông H7
quản lý. Ông H7 chết không để lại di chúc, vợ là bà Trần Ngọc X, ông H7 và bà
X có 07 người con chung là chị Ngô Thị Diễm P, anh Ngô Quốc D, chị Ngô Thị
Diễm H1, chị Ngô Thị Diễm T1, anh Ngô Quốc H2, anh Ngô Quốc T và chị Ngô
Thị Diễm H. Ông P1 chết, vợ là bà Trần Lệ A, các con là chị Ngô Thị Hồng N1,
chị Ngô Thị Hồng P2, chị Ngô Thị Hồng Đ.
Việc chính quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên hộ cụ
G, thực tế là cấp cho cụ G và cha của anh là ông H7 vì cụ G và ông H7 có hộ
khẩu tại chùa. Do đó, diện tích đất và tài sản trên đất là di sản thừa kế của cụ G
và ông H7. Vì vậy anh đề nghị Tòa án giải quyết các yêu cầu sau:
1. Xác định diện tích đất 2.656,2m2, trên đất có ngôi chùa là di sản thừa kế
của cụ G và của ông H7.
2. Xác định những người thừa kế theo pháp luật của cụ G và của ông H7 là
vợ và các con ông H7 và là tài sản chung hợp nhất của các thừa kế là vợ, các con
của ông H7.
3. Buộc các bị đơn không được ngăn cản nguyên đơn thực hiện quyền của
chủ sở hữu tài sản và vào chùa BST để tu hành.