Hệ thống pháp luật
THÔNG TIN BẢN ÁN

Quyết định số 31/2022/DS-GĐT ngày 22/09/2022 của Tòa án nhân dân tối cao về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Số quyết định: 31/2022/DS-GĐT
  • Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
  • Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
  • Ngày ban hành: 22/09/2022
  • Loại vụ/việc: Dân sự
  • Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Theo đơn khởi kiện đề ngày 03/5/2017 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Phan Thị H (do ông Huỳnh Như H1 là người đại diện theo ủy quyền) trình bày: Từ cuối năm 2014, bà Nguyễn Thị Hồng T đã nhiều lần mượn tiền của bà H. Cụ thể: Ngày 22/11/2015, bà T mượn của bà T 2.495.000.000 đồng. Khi mượn có ghi tên ông Q là chồng của bà T, bà T chỉ ghi tên ông Q nhưng thực tế không có mặt ông Q, ông Q cũng không ký nhận. Giấy mượn tiền có đóng dấu của Công ty TNHH Bệnh viện đa khoa ĐL (viết tắt là Công ty ĐL), bà T mượn tiền để làm dự án cho Công ty ĐL. Ngoài ra, bà T đại diện cho Công ty ĐL mượn của bà H số tiền 1.500.000.000 đồng, không làm giấy tờ. Ngày 22/8/2014, bà Lê Thị Ánh T1 và chị Nguyễn Ngọc T2 ký hợp đồng cho bà T mượn 2.500.000.000 đồng. Ngày 25/11/2016, bà T1 và chị T2 thỏa thuận chuyển quyền cho bà H, theo đó bà H sẽ là người cho bà T vay số tiền 2.500.000.000 đồng và bà H sẽ trả số tiền 2.500.000.000 đồng lại cho chị T2 và bà T1. Chị T2 giao lại cho bà H giữ 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản chính số BV515043 và BV515044 do Ủy ban nhân dân tỉnh Long An cấp cho Công ty ĐL ngày 21/8/2014 mà bà T đã thế chấp cho chị T2 và bà T1 để vay tiền. Sau nhiều lần mượn tiền của bà H đến ngày 02/3/2017 bà T đại diện cho Công ty ĐL ký giấy xác nhận nợ bà H số tiền 14.000.000.000 đồng, khi bà T ký giấy nhận nợ có ghi chú “chỉ xài 1 giấy này, còn giấy cũ bỏ hết” nên bà H đã bỏ hết giấy nợ mà trước đây bà T ký nhận. Khi bà T ký giấy xác nhận nợ có thỏa thuận miệng trong vòng một tháng sẽ trả hết số tiền này cho bà H nhưng sau một tháng bà H có đòi nhiều lần nhưng bà T vẫn không trả. Ngày 28/01/2015, bà T ký giấy nhận cọc với ông Trần Văn C, có nội dung: Bà T chuyển nhượng cho ông C 11.457m2 đất, bà T nhận của ông C số tiền 16.900.000.000 đồng. Ông C chỉ đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thay cho bà H, thực chất số tiền 16.900.000.000 đồng mà ông C giao cho bà T là tiền của bà H. Do đó, bà H yêu cầu bà T trả số tiền 30.900.000.000 đồng. Ngày 17/6/2017, bà H có đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện, bà H không yêu cầu bà T trả số tiền 16.900.000.000 đồng mà chỉ yêu cầu bà T trả số tiền 14.000.000.000 đồng.
Tải về bản án