Quyết định số 30/2022/DS-GĐT ngày 24/08/2022 của Tòa án nhân dân tối cao về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số quyết định: 30/2022/DS-GĐT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Ngày ban hành: 24/08/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Tại Đơn khởi kiện ngày 17/11/2015 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là
Ngân hàng A trình bày:
Ngày 23/01/2015, ông Quan Ngọc T1 và bà Trần Huỳnh N có ký với Ngân
hàng A (sau đây viết tắt là Ngân hàng) Hợp đồng tín dụng số 1403-LAV- 201500036
và Hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số 1403-LDS- 201500119. Theo các
hợp đồng nêu trên thì ông T, bà N vay số tiền 16.500.000.000 đồng, thời hạn vay là
180 tháng thanh toán vốn và lãi trong các kỳ thanh toán; lãi suất cho vay là 10%/năm
áp dụng trong 12 tháng đầu, lãi suất từ tháng 13 trở đi được điều chỉnh định kỳ 01
tháng/lần và bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm 13 tháng (lãi cuối kỳ) cộng 3,5%/năm;
lãi suất quá hạn 150% mức lãi suất cho vay.
Tài sản đảm bảo cho khoản vay nêu trên theo hợp đồng tín dụng là quyền tài
sản phát sinh từ Hợp đồng chuyển nhượng bất động sản tại số 369 HB, Phường 11,
Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp ngày 04/4/2013 cho ông Nguyễn
Trung Hoàng T2. Đến ngày 28/01/2015 cập nhật biến động đứng tên ông T1. Cùng
ngày 28/01/2015, Ngân hàng và vợ chồng ông T1 đã ký Biên bản bổ sung, sửa đổi
số 01, theo đó tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất tại số 369 HB.
Để bảo đảm cho khoản vay nêu trên, Ngân hàng và vợ chồng ông T đã ký Hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 17/2015/EIBQ7-
KHCN/TSTC ngày 28/01/2015 tại Phòng công chứng số 1 Thành phố Hồ Chí Minh;
đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 28/01/2015 tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng
đất Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
Do ông T1, bà N vi phạm nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu
nhưng ông T1, bà N vẫn không thanh toán nợ nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông
T1, bà N thanh toán toàn bộ nợ gốc và lãi phát sinh tính đến ngày 10/11/2015 là
17.156.681.401 đồng (trong đó nợ gốc 16.300.000.000 đồng, nợ lãi 829.147.776
đồng, lãi phạt 27.533.625 đồng). Lãi tiếp tục được tính cho đến khi ông T, bà N thanh
toán xong nợ theo mức lãi suất được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và các khế
ước nhận nợ đã ký. Nếu ông T1, bà N không trả nợ hoặc trả nợ không đủ thì Ngân
hàng được quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án phát mãi tài sản thế chấp là quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại số 369 HB nêu trên.
Nếu tài sản bảo đảm phát mãi vẫn không thu hồi đủ nợ thì ông T1 và bà N tiếp tục
có nghĩa vụ thanh toán cho đến khi trả xong nợ.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Quyết định số 30/2022/DS-GĐT ngày 24/08/2022 của Tòa án nhân dân tối cao về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số quyết định: 30/2022/DS-GĐT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Ngày ban hành: 24/08/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Tại Đơn khởi kiện ngày 17/11/2015 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là
Ngân hàng A trình bày:
Ngày 23/01/2015, ông Quan Ngọc T1 và bà Trần Huỳnh N có ký với Ngân
hàng A (sau đây viết tắt là Ngân hàng) Hợp đồng tín dụng số 1403-LAV- 201500036
và Hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số 1403-LDS- 201500119. Theo các
hợp đồng nêu trên thì ông T, bà N vay số tiền 16.500.000.000 đồng, thời hạn vay là
180 tháng thanh toán vốn và lãi trong các kỳ thanh toán; lãi suất cho vay là 10%/năm
áp dụng trong 12 tháng đầu, lãi suất từ tháng 13 trở đi được điều chỉnh định kỳ 01
tháng/lần và bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm 13 tháng (lãi cuối kỳ) cộng 3,5%/năm;
lãi suất quá hạn 150% mức lãi suất cho vay.
Tài sản đảm bảo cho khoản vay nêu trên theo hợp đồng tín dụng là quyền tài
sản phát sinh từ Hợp đồng chuyển nhượng bất động sản tại số 369 HB, Phường 11,
Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp ngày 04/4/2013 cho ông Nguyễn
Trung Hoàng T2. Đến ngày 28/01/2015 cập nhật biến động đứng tên ông T1. Cùng
ngày 28/01/2015, Ngân hàng và vợ chồng ông T1 đã ký Biên bản bổ sung, sửa đổi
số 01, theo đó tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất tại số 369 HB.
Để bảo đảm cho khoản vay nêu trên, Ngân hàng và vợ chồng ông T đã ký Hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 17/2015/EIBQ7-
KHCN/TSTC ngày 28/01/2015 tại Phòng công chứng số 1 Thành phố Hồ Chí Minh;
đăng ký giao dịch bảo đảm ngày 28/01/2015 tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng
đất Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
Do ông T1, bà N vi phạm nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu
nhưng ông T1, bà N vẫn không thanh toán nợ nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông
T1, bà N thanh toán toàn bộ nợ gốc và lãi phát sinh tính đến ngày 10/11/2015 là
17.156.681.401 đồng (trong đó nợ gốc 16.300.000.000 đồng, nợ lãi 829.147.776
đồng, lãi phạt 27.533.625 đồng). Lãi tiếp tục được tính cho đến khi ông T, bà N thanh
toán xong nợ theo mức lãi suất được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và các khế
ước nhận nợ đã ký. Nếu ông T1, bà N không trả nợ hoặc trả nợ không đủ thì Ngân
hàng được quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án phát mãi tài sản thế chấp là quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại số 369 HB nêu trên.
Nếu tài sản bảo đảm phát mãi vẫn không thu hồi đủ nợ thì ông T1 và bà N tiếp tục
có nghĩa vụ thanh toán cho đến khi trả xong nợ.