Quyết định số 27/2022/HC-GĐT ngày 29/08/2022 của Tòa án nhân dân tối cao
Số quyết định: 27/2022/HC-GĐT
Quan hệ pháp luật: QĐ hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư…
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Ngày ban hành: 29/08/2022
Loại vụ/việc: Hành chính
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Tại đơn khởi kiện ngày 16/7/2019 và trong quá trình tố tụng, người khởi
kiện là ông Võ L trình bày:
Hộ gia đình ông Võ L là chủ sử dụng Thửa đất số 72, Tờ bản đồ số 15, diện
tích 378,4 m2 (hồ sơ đăng ký theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ
là Thửa đất số 311, Tờ bản đồ số 04, diện tích 240 m2) tại thôn TN, xã CT, thành
phố HA, tỉnh Quảng Nam. Nguồn gốc thửa đất trước đây là ao rau muống, không
ai sử dụng; năm 1993 gia đình ông L đã khai hoang, thuê nhân công bồi đắp ao,
lấp đất và được Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) xã CT xác nhận gia đình ông
sử dụng từ sau ngày 15-10-1993 đến trước ngày 01/7/2004. Năm 1998, gia đình
ông xây một ngôi nhà cấp 4 để ở, tuy không có giấy phép xây dựng nhưng đã sử
dụng từ trước đến nay không ai có ý kiến gì. Theo Hồ sơ đã đăng ký theo Nghị
định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ thì thửa đất này do bà Đặng Thị H1
kê khai, nhưng theo Hồ sơ VN2000 thì do ông L kê khai. Năm 2017, ông L làm
đơn đề nghị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSD
đất) đối với diện tích 378,4m2 đất nêu trên nhưng UBND thành phố HA trả lời:
Thửa đất số 311, Tờ bản đồ số 04, diện tích 240 m2 đã được cấp GCNQSD đất cho
bà Đặng Thị H1, nên không đồng ý cấp GCNQSD đất cho gia đình ông. Vì vậy,
ông L đề nghị hủy GCNQSD đất số E0254351 ngày 19-10-1994, do UBND thị xã
HA (nay là thành phố HA) cấp cho bà Đặng Thị H1 đối với Thửa đất số 311, Tờ
bản đồ số 04, diện tích 240 m2.
Người bị kiện UBND thành phố HA trình bày:
- Về nguồn gốc thửa đất: Hồ sơ đã đăng ký theo Chỉ thị 299/TTg của Thủ
tướng Chính phủ: Diện tích 378,4m2 đất tại Thửa đất số 72, Tờ bản đồ số 15, thôn
TN, xã CT thuộc một phần diện tích của 03 thửa đất tại Tờ bản đồ số 07, xã CT
gồm: Thửa đất số 79, diện tích 100 m2 loại đất ao và Thửa đất số 80, diện tích 100
m2, loại đất màu do UBND xã CT quản lý và Thửa đất số 93, diện tích 960 m2, loại
đất màu do ông Nguyễn N, ông Nguyễn D và ông Trần B (hay còn gọi là ông Trần
Công B) kê khai, đăng ký.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Quyết định số 27/2022/HC-GĐT ngày 29/08/2022 của Tòa án nhân dân tối cao
Số quyết định: 27/2022/HC-GĐT
Quan hệ pháp luật: QĐ hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư…
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Ngày ban hành: 29/08/2022
Loại vụ/việc: Hành chính
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Tại đơn khởi kiện ngày 16/7/2019 và trong quá trình tố tụng, người khởi
kiện là ông Võ L trình bày:
Hộ gia đình ông Võ L là chủ sử dụng Thửa đất số 72, Tờ bản đồ số 15, diện
tích 378,4 m2 (hồ sơ đăng ký theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ
là Thửa đất số 311, Tờ bản đồ số 04, diện tích 240 m2) tại thôn TN, xã CT, thành
phố HA, tỉnh Quảng Nam. Nguồn gốc thửa đất trước đây là ao rau muống, không
ai sử dụng; năm 1993 gia đình ông L đã khai hoang, thuê nhân công bồi đắp ao,
lấp đất và được Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) xã CT xác nhận gia đình ông
sử dụng từ sau ngày 15-10-1993 đến trước ngày 01/7/2004. Năm 1998, gia đình
ông xây một ngôi nhà cấp 4 để ở, tuy không có giấy phép xây dựng nhưng đã sử
dụng từ trước đến nay không ai có ý kiến gì. Theo Hồ sơ đã đăng ký theo Nghị
định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ thì thửa đất này do bà Đặng Thị H1
kê khai, nhưng theo Hồ sơ VN2000 thì do ông L kê khai. Năm 2017, ông L làm
đơn đề nghị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSD
đất) đối với diện tích 378,4m2 đất nêu trên nhưng UBND thành phố HA trả lời:
Thửa đất số 311, Tờ bản đồ số 04, diện tích 240 m2 đã được cấp GCNQSD đất cho
bà Đặng Thị H1, nên không đồng ý cấp GCNQSD đất cho gia đình ông. Vì vậy,
ông L đề nghị hủy GCNQSD đất số E0254351 ngày 19-10-1994, do UBND thị xã
HA (nay là thành phố HA) cấp cho bà Đặng Thị H1 đối với Thửa đất số 311, Tờ
bản đồ số 04, diện tích 240 m2.
Người bị kiện UBND thành phố HA trình bày:
- Về nguồn gốc thửa đất: Hồ sơ đã đăng ký theo Chỉ thị 299/TTg của Thủ
tướng Chính phủ: Diện tích 378,4m2 đất tại Thửa đất số 72, Tờ bản đồ số 15, thôn
TN, xã CT thuộc một phần diện tích của 03 thửa đất tại Tờ bản đồ số 07, xã CT
gồm: Thửa đất số 79, diện tích 100 m2 loại đất ao và Thửa đất số 80, diện tích 100
m2, loại đất màu do UBND xã CT quản lý và Thửa đất số 93, diện tích 960 m2, loại
đất màu do ông Nguyễn N, ông Nguyễn D và ông Trần B (hay còn gọi là ông Trần
Công B) kê khai, đăng ký.