Quyết định số 25/2022/DS-GĐT ngày 23/08/2022 của Tòa án nhân dân tối cao về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Số quyết định: 25/2022/DS-GĐT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Ngày ban hành: 23/08/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Tại Đơn khởi kiện ngày 23/02/2018 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn là bà Bùi Thị N trình bày:
Bà nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Văn Minh N1 phần đất diện tích
80m2, thửa đất số 4, tờ bản đồ số 53 tại phường MM, quận GV, Thành phố Hồ
Chí Minh, theo Tài liệu 299/TTg thuộc thửa đất số 366, tờ bản đồ số 2. Tuy
nhiên, khi thực hiện thủ tục hợp thức hóa phần đất trên, bà được Ủy ban nhân
dân quận GV trả lời phần đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Nguyễn Hồng T. Việc Ủy ban nhân dân quận GV cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Hồng T là không đúng. Do đó bà khởi
kiện yêu cầu Tòa án công nhận việc chuyển nhượng giữa bà với ông Nguyễn3
Văn Minh N1 và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông
Nguyễn Hồng T. Quá trình giải quyết vụ án bà và ông Nguyễn Văn Minh N1 đã
tự thỏa thuận giải quyết việc chuyển nhượng nên bà không còn tranh chấp và đề
nghị Tòa án đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà.
Bị đơn là ông Nguyễn Hồng T, do bà Nguyễn Thị Thúy H là người đại
diện theo ủy quyền trình bày:
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 25/6/2019, bà H có lời khai: Lô đất đang
tranh chấp là do ông T nhận chuyển nhượng của bà Trịnh Thị B vào năm 1995,
hai bên có lập giấy mua bán tay được Ủy ban nhân dân Phường MM, quận GV
xác nhận. Bà B là người giao đất cho ông T, hai bên không lập biên bản giao
đất, không cắm mốc ranh đất. Từ khi nhận đất, ông T không quản lý, sử dụng;
đến năm 2004 được cấp chủ quyền thì xây hàng rào bảo vệ. Toàn bộ hồ sơ bản
chính trong đó có giấy mua bán tay với bà B đã nộp cho Ủy ban nhân dân quận
khi làm thủ tục xin cấp giấy chủ quyền. Bà H khẳng định thửa đất ông T được
cấp chủ quyền là thửa đất trước đây nhận chuyển nhượng của bà B, nay ông T
đã tặng cho bà H.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Quyết định số 25/2022/DS-GĐT ngày 23/08/2022 của Tòa án nhân dân tối cao về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Số quyết định: 25/2022/DS-GĐT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Ngày ban hành: 23/08/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Tại Đơn khởi kiện ngày 23/02/2018 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn là bà Bùi Thị N trình bày:
Bà nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Văn Minh N1 phần đất diện tích
80m2, thửa đất số 4, tờ bản đồ số 53 tại phường MM, quận GV, Thành phố Hồ
Chí Minh, theo Tài liệu 299/TTg thuộc thửa đất số 366, tờ bản đồ số 2. Tuy
nhiên, khi thực hiện thủ tục hợp thức hóa phần đất trên, bà được Ủy ban nhân
dân quận GV trả lời phần đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Nguyễn Hồng T. Việc Ủy ban nhân dân quận GV cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Hồng T là không đúng. Do đó bà khởi
kiện yêu cầu Tòa án công nhận việc chuyển nhượng giữa bà với ông Nguyễn3
Văn Minh N1 và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông
Nguyễn Hồng T. Quá trình giải quyết vụ án bà và ông Nguyễn Văn Minh N1 đã
tự thỏa thuận giải quyết việc chuyển nhượng nên bà không còn tranh chấp và đề
nghị Tòa án đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà.
Bị đơn là ông Nguyễn Hồng T, do bà Nguyễn Thị Thúy H là người đại
diện theo ủy quyền trình bày:
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 25/6/2019, bà H có lời khai: Lô đất đang
tranh chấp là do ông T nhận chuyển nhượng của bà Trịnh Thị B vào năm 1995,
hai bên có lập giấy mua bán tay được Ủy ban nhân dân Phường MM, quận GV
xác nhận. Bà B là người giao đất cho ông T, hai bên không lập biên bản giao
đất, không cắm mốc ranh đất. Từ khi nhận đất, ông T không quản lý, sử dụng;
đến năm 2004 được cấp chủ quyền thì xây hàng rào bảo vệ. Toàn bộ hồ sơ bản
chính trong đó có giấy mua bán tay với bà B đã nộp cho Ủy ban nhân dân quận
khi làm thủ tục xin cấp giấy chủ quyền. Bà H khẳng định thửa đất ông T được
cấp chủ quyền là thửa đất trước đây nhận chuyển nhượng của bà B, nay ông T
đã tặng cho bà H.