Bản án số 05/2020/DS-PT ngày 06/02/2020 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Số bản án: 05/2020/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 06/02/2020
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hậu Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Ông L kháng cáo cho rằng lý do không giao kết hợp đồng được là do bà V không chịu ra văn phòng công chứng để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, bà V không thừa nhận mà cho rằng người không chịu ký hợp đồng là ông L. Xét thấy lời trình bày của các bên là hoàn toàn mâu thuẫn nhau nhưng không bên nào cung cấp được chứng cứ chứng minh. Tuy nhiên, trên thực tế các bên thừa nhận có đến văn phòng công chứng vào ngày 29/5/2019 nhưng không thống nhất đi đến ký hợp đồng, nguyên nhân là do ông L yêu cầu bà V phải đăng ký chuyển mục đích đất sang thổ cư xong mới ký hợp đồng chuyển nhượng nhưng không được bà V đồng ý nên không thể giao kết được hợp đồng chuyển nhượng như đã thỏa thuận tại hợp đồng đặt cọc. Ông L cho rằng bà V không chịu ký hợp đồng nên bỏ về là không đúng, mâu thuẫn với lời khai của ông tại phiên tòa sơ thẩm và biên bản hòa giải của Ban hòa giải ấp Phước Thuận là bà V không chịu nâng lên thổ cư nên không ký hợp đồng được. Do đó, việc ông L cho rằng bà V không chịu ký hợp đồng tại văn phòng công chứng là không có cơ sở.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 05/2020/DS-PT ngày 06/02/2020 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Số bản án: 05/2020/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 06/02/2020
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hậu Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Ông L kháng cáo cho rằng lý do không giao kết hợp đồng được là do bà V không chịu ra văn phòng công chứng để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, bà V không thừa nhận mà cho rằng người không chịu ký hợp đồng là ông L. Xét thấy lời trình bày của các bên là hoàn toàn mâu thuẫn nhau nhưng không bên nào cung cấp được chứng cứ chứng minh. Tuy nhiên, trên thực tế các bên thừa nhận có đến văn phòng công chứng vào ngày 29/5/2019 nhưng không thống nhất đi đến ký hợp đồng, nguyên nhân là do ông L yêu cầu bà V phải đăng ký chuyển mục đích đất sang thổ cư xong mới ký hợp đồng chuyển nhượng nhưng không được bà V đồng ý nên không thể giao kết được hợp đồng chuyển nhượng như đã thỏa thuận tại hợp đồng đặt cọc. Ông L cho rằng bà V không chịu ký hợp đồng nên bỏ về là không đúng, mâu thuẫn với lời khai của ông tại phiên tòa sơ thẩm và biên bản hòa giải của Ban hòa giải ấp Phước Thuận là bà V không chịu nâng lên thổ cư nên không ký hợp đồng được. Do đó, việc ông L cho rằng bà V không chịu ký hợp đồng tại văn phòng công chứng là không có cơ sở.