Quyết định số 11/2023/DS-GĐT ngày 17/07/2023 của Tòa án nhân dân tối cao về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Số quyết định: 11/2023/DS-GĐT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Ngày ban hành: 17/07/2023
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/10/2012 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn là bà Trần Thị Hồng L trình bày:
Nguyên mảnh đất bà trồng cà phê tại thôn Bruk N, phường Yên T, thành phố
P, tỉnh Gia Lai có một phần là bà nhận chuyển nhượng từ ông Ksor H1 và một phần
là bà cùng ông Tống Song T nhận chuyển nhượng từ ông Phạm Thanh G vào năm
1996. Khi nhận chuyển nhượng từ ông G, hai bên không lập giấy tờ; sau khi nhận
chuyển nhượng, bà đã đào hố và trồng cây cà phê trên diện tích đất này.Năm 2012, vợ chồng ông G tự ý vào chăm sóc, thu hoạch các cây cà phê
do bà trồng, đồng thời trồng mới một số cây cà phê trên diện tích đất đã chuyển
nhượng cho bà. Do vậy, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông G trả lại
cho bà diện tích 5.189,45 m2 đất (theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ và đo
đạc thực tế ngày 25/4/2013) và 434 cây cà phê vối (R) do bà trồng vào năm 1996.
Tuy nhiên ngày 18/7/2013, bà rút yêu cầu Tòa án buộc bị đơn trả lại quyền sử
dụng đất, giữ nguyên yêu cầu trả lại 434 cây cà phê trên đất.
Bị đơn là ông Phạm Thanh G, bà Đặng Thị H trình bày:
Ông bà thỏa thuận cho bà L và ông T thuê phần đất có diện tích 5.189,45m2
để trồng cà phê với thời hạn từ năm 1996 đến năm 2011 (không lập văn bản). Đầu
năm 2012, thời hạn thuê đã hết, ông bà lấy lại vườn cà phê trên đó có một số cây
cà phê do ông T, bà L trồng và ông bà đã đầu tư chi phí chăm sóc với số tiền là
62.700.000 đồng. Tuy nhiên, ngày 30/10/2012, bà L vẫn tiến hành thu hoạch cà
phê trồng trên phần đất nêu trên. Theo thỏa thuận giữa ông bà với ông T: từ năm
1996 đến năm 2001 không tính tiền thuê đất cũng như bất cứ chi phí nào khác; từ
năm 2001 đến năm 2006, ông T phải đưa cho ông bà số tiền 2.400.000 đồng (ông
bà đã nhận số tiền này từ ông T); từ năm 2006 đến năm 2011, mỗi năm ông T phải
trả cho ông bà số tiền 2.300.000 đồng tuy nhiên đến năm 2012 thì ông T vẫn chưa
đưa số tiền này cho ông bà.
Do vậy, ông bà có yêu cầu phản tố yêu cầu Tòa án buộc bà L phải trả cho
ông bà: tiền công chăm sóc và phân bón là 62.700.000 đồng; tiền thuê đất trong
06 năm (từ năm 2006 đến năm 2012) là 13.800.000 đồng cùng với số tiền lãi
26.520.405 đồng; tổng cộng là 89.220.405 đồng.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Quyết định số 11/2023/DS-GĐT ngày 17/07/2023 của Tòa án nhân dân tối cao về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Số quyết định: 11/2023/DS-GĐT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Giám đốc thẩm
Ngày ban hành: 17/07/2023
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân tối cao
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/10/2012 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên
đơn là bà Trần Thị Hồng L trình bày:
Nguyên mảnh đất bà trồng cà phê tại thôn Bruk N, phường Yên T, thành phố
P, tỉnh Gia Lai có một phần là bà nhận chuyển nhượng từ ông Ksor H1 và một phần
là bà cùng ông Tống Song T nhận chuyển nhượng từ ông Phạm Thanh G vào năm
1996. Khi nhận chuyển nhượng từ ông G, hai bên không lập giấy tờ; sau khi nhận
chuyển nhượng, bà đã đào hố và trồng cây cà phê trên diện tích đất này.Năm 2012, vợ chồng ông G tự ý vào chăm sóc, thu hoạch các cây cà phê
do bà trồng, đồng thời trồng mới một số cây cà phê trên diện tích đất đã chuyển
nhượng cho bà. Do vậy, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông G trả lại
cho bà diện tích 5.189,45 m2 đất (theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ và đo
đạc thực tế ngày 25/4/2013) và 434 cây cà phê vối (R) do bà trồng vào năm 1996.
Tuy nhiên ngày 18/7/2013, bà rút yêu cầu Tòa án buộc bị đơn trả lại quyền sử
dụng đất, giữ nguyên yêu cầu trả lại 434 cây cà phê trên đất.
Bị đơn là ông Phạm Thanh G, bà Đặng Thị H trình bày:
Ông bà thỏa thuận cho bà L và ông T thuê phần đất có diện tích 5.189,45m2
để trồng cà phê với thời hạn từ năm 1996 đến năm 2011 (không lập văn bản). Đầu
năm 2012, thời hạn thuê đã hết, ông bà lấy lại vườn cà phê trên đó có một số cây
cà phê do ông T, bà L trồng và ông bà đã đầu tư chi phí chăm sóc với số tiền là
62.700.000 đồng. Tuy nhiên, ngày 30/10/2012, bà L vẫn tiến hành thu hoạch cà
phê trồng trên phần đất nêu trên. Theo thỏa thuận giữa ông bà với ông T: từ năm
1996 đến năm 2001 không tính tiền thuê đất cũng như bất cứ chi phí nào khác; từ
năm 2001 đến năm 2006, ông T phải đưa cho ông bà số tiền 2.400.000 đồng (ông
bà đã nhận số tiền này từ ông T); từ năm 2006 đến năm 2011, mỗi năm ông T phải
trả cho ông bà số tiền 2.300.000 đồng tuy nhiên đến năm 2012 thì ông T vẫn chưa
đưa số tiền này cho ông bà.
Do vậy, ông bà có yêu cầu phản tố yêu cầu Tòa án buộc bà L phải trả cho
ông bà: tiền công chăm sóc và phân bón là 62.700.000 đồng; tiền thuê đất trong
06 năm (từ năm 2006 đến năm 2012) là 13.800.000 đồng cùng với số tiền lãi
26.520.405 đồng; tổng cộng là 89.220.405 đồng.