Quyết định số 02/2021/QĐPT-DS ngày 15/01/2021 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số quyết định: 02/2021/QĐPT-DS
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 15/01/2021
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Phước
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Ngày 30/11/2017, bà H2 và bà O thỏa thuận miệng với nhau về việc mua bán hạt điều, số lượng điều bà O bán cho bà H2 khoảng 100 tấn, bà H2 đặt cọc số tiền 20% giá trị của hợp đồng tương ứng số tiền 900.000.000đ (trong đó chuyển khoản 850.000.000đ và đưa trực tiếp 50.000.000đ); Thời hạn thực hiện việc giao hàng trong 02 tháng kể từ ngày 30/11/2017. Hết thời hạn giao hàng, bà O không giao hàng đúng hạn nên bà H2 yêu cầu chấm dứt hợp đồng và đòi lại tiền cọc. Đến tháng 5/2018, bà O trả cho bà H2 số tiền 240 triệu thông qua việc bán số lượng hạt điều là 26.826 kg (đây là số điều về trễ hạn mà bà H2 không nhận). Số tiền còn lại bà O không trả nên bà H2 khởi kiện yêu cầu bà O ông H phải trả số tiền nợ cọc là 657.640.000đ và tiền lãi phát sinh tính từ tháng 8 năm 2018 cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền với mức lãi suất 10%/năm.
Bà O thừa nhận có nội dung thỏa thuận như bà H2 trình bày, nhưng cho rằng bà H2 chỉ mới đặt cọc 850 triệu, chứ không phải 900 triệu đồng. Sau khi trục trặc việc mua điều về giao cho bà H2 và bà H2 yêu cầu chấm dứt hợp đồng, nên bà O đã nói chồng là ông H chuyển cho bà H2 số tiền để trả lại tiền cọc 850 triệu và 150 tiền lãi. Vì vậy, bà O và ông H không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà H2.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Quyết định số 02/2021/QĐPT-DS ngày 15/01/2021 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số quyết định: 02/2021/QĐPT-DS
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 15/01/2021
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Phước
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Ngày 30/11/2017, bà H2 và bà O thỏa thuận miệng với nhau về việc mua bán hạt điều, số lượng điều bà O bán cho bà H2 khoảng 100 tấn, bà H2 đặt cọc số tiền 20% giá trị của hợp đồng tương ứng số tiền 900.000.000đ (trong đó chuyển khoản 850.000.000đ và đưa trực tiếp 50.000.000đ); Thời hạn thực hiện việc giao hàng trong 02 tháng kể từ ngày 30/11/2017. Hết thời hạn giao hàng, bà O không giao hàng đúng hạn nên bà H2 yêu cầu chấm dứt hợp đồng và đòi lại tiền cọc. Đến tháng 5/2018, bà O trả cho bà H2 số tiền 240 triệu thông qua việc bán số lượng hạt điều là 26.826 kg (đây là số điều về trễ hạn mà bà H2 không nhận). Số tiền còn lại bà O không trả nên bà H2 khởi kiện yêu cầu bà O ông H phải trả số tiền nợ cọc là 657.640.000đ và tiền lãi phát sinh tính từ tháng 8 năm 2018 cho đến khi thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền với mức lãi suất 10%/năm.
Bà O thừa nhận có nội dung thỏa thuận như bà H2 trình bày, nhưng cho rằng bà H2 chỉ mới đặt cọc 850 triệu, chứ không phải 900 triệu đồng. Sau khi trục trặc việc mua điều về giao cho bà H2 và bà H2 yêu cầu chấm dứt hợp đồng, nên bà O đã nói chồng là ông H chuyển cho bà H2 số tiền để trả lại tiền cọc 850 triệu và 150 tiền lãi. Vì vậy, bà O và ông H không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà H2.