- 1Quyết định 212/2005/QĐ-TTg về quy chế quản lý an toàn sinh học đối với các sinh vật biến đổi gen; sản phẩm, hàng hoá có nguồn gốc từ sinh vật biến đổi gen do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 2Nghị quyết số 18/NQ-CP về việc phát triển công nghệ sinh học ở Việt Nam đến năm 2010 do Chính Phủ ban hành
- 3Quyết định 80/2002/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 1Quyết định 188/2005/QĐ-TTg về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Chỉ thị 50-CT/TW về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 2Quyết định 11/2006/QĐ-TTg phê duyệt "Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020" do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 3Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân 2003
- 4Nghị quyết 46/2007/NQ-HĐND thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - An ninh năm 2007 của tỉnh Vĩnh Long
UỶ BAN NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 730/QĐ-UBND | Vĩnh Long, ngày 05 tháng 4 năm 2007 |
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ SINH HỌC TỈNH VĨNH LONG, GIAI ĐOẠN 2007 - 2015
CHỦ TỊCH UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Quyết định số 188/2005/QĐ-TTg , ngày 22/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động của Thủ tướng Chính phủ thực hiện Chỉ thị số 50 - CT/TW, ngày 04/3/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
Căn cứ Quyết định số 11/2006/QĐ-TTg, ngày 12/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020;
Căn cứ Nghị quyết số 46/2007/NQ-HĐND , ngày 25/01/2007 của Chủ tịch Hội đồng nhân dân khoá VII kỳ họp thứ 9, về việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2007;
Xét Tờ trình số 16/TTr-SKHCN, ngày 11/01/2007 của Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Vĩnh Long, về việc xin phê duyệt Đề án Phát triển công nghệ sinh học tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2007 - 2015,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án Phát triển công nghệ sinh học tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2007 - 2015 kèm theo Quyết định này.
Điều 2. Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ, Giám đốc Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn, Thủ trưởng các Sở, ban, ngành tỉnh có liên quan và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã tổ chức triển khai và thực hiện Đề án Phát triển công nghệ sinh học tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2007 - 2015.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực sau 10 ngày, kể từ ngày ký và được đăng Công báo tỉnh.
Điều 4. Chánh Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ, Giám đốc Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn, Thủ trưởng các Sở, ban, ngành tỉnh và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
| KT. CHỦ TỊCH |
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ SINH HỌC TỈNH VĨNH LONG, GIAI ĐOẠN 2007 - 2015
(Ban hành kèm theo Quyết định số 730/QĐ-UBND, ngày 05/4/2007 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long)
THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ SINH HỌC Ở VĨNH LONG
Phát triển công nghệ sinh học (CNSH) đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ những năm 1994. Kể từ khi Chỉ thị 18/CP của Chính phủ, Chỉ thị 50-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần lượt được ban hành, công nghệ sinh học bước đầu đã được ứng dụng có hiệu quả trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghệ thực phẩm, y tế và môi trường. Là một nước phát triển nông nghiệp, công nghệ sinh học có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; là yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo an ninh lương thực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng bền vững; cung cấp các sản phẩm thiết yếu cho chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Riêng tỉnh Vĩnh Long, ít nhất trong 10 năm tới, nền kinh tế của tỉnh vẫn còn dựa vào phát triển nông nghiệp. Mặt khác, trước yêu cầu phát triển bền vững, yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm, yêu cầu cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, công nghệ sinh học hiện diện như một tất yếu, khách quan. Cùng với những thành tựu to lớn về công nghệ sinh học trên thế giới sẽ là thời cơ thuận lợi cho tỉnh trong việc tiếp cận, nghiên cứu ứng dụng và đầu tư phát triển công nghệ sinh học thành một ngành kinh tế - kỹ thuật, tạo ra giá trị sản phẩm hàng hoá lớn, đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Với vai trò quan trọng đó, việc đầu tư nâng cao tiềm lực nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học tại tỉnh Vĩnh Long trong thời gian tới là rất cần thiết.
II. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Toàn tỉnh có 60 tổ chức khoa học và công nghệ, trong đó có trên 10 tổ chức hoạt động có liên quan đến nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học. Đến năm 2005, bên cạnh các tổ chức trên, trong tỉnh có 4 hợp tác xã nông nghiệp, 59 tổ hợp tác và 5.858 hộ tham gia sản xuất giống lúa, phục vụ sản xuất trên 69% diện tích sản xuất lúa; 1 trại giống cây ăn trái và 128 cơ sở sản xuất giống cây ăn trái trong dân, qui mô 1,73 triệu cây/năm; 119 cửa hàng giống rau màu, cung cấp hạt giống; trung tâm giống cung cấp heo giống, bò giống trên 6,1 ngàn con/năm, gà giống 489 ngàn con/năm; có 202 cơ sở ươm cá giống, qui mô 700 tấn/năm, 16 cơ sở nhân giống tôm càng xanh, qui mô 4,82 triệu con/năm.
Kết quả điều tra tiềm lực khoa học và công nghệ cho thấy: Giá trị tài sản của các tổ chức khoa học công nghệ là 509,2 tỷ đồng. Nếu xét theo lĩnh vực thì nông lâm, thủy sản thì giá trị tài sản chiếm 5% so với các lĩnh vực khoa học khác. Máy móc, thiết bị cho hoạt động khoa học và công nghệ phần lớn là các thiết bị phân tích, kiểm nghiệm thông thường, chưa có nhiều trang thiết bị hiện đại phục vụ cho nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ sinh học.
Nguồn nhân lực: Toàn tỉnh có 10.583 người có trình độ từ cao đẳng trở lên, chiếm 28,2% lực lượng lao động toàn tỉnh, trong đó có 11 tiến sĩ, 110 thạc sĩ và 6.364 đại học.
Xét riêng đội ngũ có trình độ thạc sĩ trở lên trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động công nghệ sinh học (nông nghiệp, công nghệ thực phẩm, y học và môi trường) thì có 50 người, chiếm 41,3% (không có tiến sĩ). Ở lĩnh vực y học, số người có trình độ thạc sĩ trở lên có 14 người, chiếm 11,6% và hiện tại số cán bộ này chỉ thực hiện nhiệm vụ điều trị bệnh, chứ chưa có điều kiện nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực y học.
Về trợ cấp cho cán bộ, công chức được cử đào tạo sau đại học có quy định mức hỗ trợ thực hiện luận văn tốt nghiệp là 35 triệu đồng/luận văn (đào tạo tiến sĩ) và 20 triệu đồng/luận văn (đào tạo thạc sĩ). Trong thực tế, mức hỗ trợ trên chưa thật sự khuyến khích được cán bộ, bởi vì số chi phí đó chưa đủ để thực hiện một luận văn tốt nghiệp đối với cán bộ được quy hoạch, đó là chưa kể số cán bộ trẻ cử đi đào tạo chỉ được hưởng 50% mức hỗ trợ. Thêm vào đó, sau khi tốt nghiệp về công tác thì cán bộ trên vẫn hưởng bậc lương đại học mà không có khoản trợ cấp nào cho bằng cấp được đào tạo.
Xét về tổ chức mà đội ngũ có trình độ thạc sĩ trở lên (lĩnh vực công nghệ sinh học) đang công tác thì có 18 người (chiếm 36%) công tác trong cơ quan quản lý nhà nước và 32 người (chiếm 64%) làm việc tại các đơn vị sự nghiệp. Chắc rằng, số cán bộ có trình độ sau đại học, đang công tác tại các cơ quan hành chính đã phần nào mang lại hiệu quả thiết thực cho nhiệm vụ quản lý nhà nước. Song, ở khía cạnh nào đó, số cán bộ này chưa thể phát huy được hiệu quả chuyên môn vào việc nghiên cứu, đúng với kiến thức được đào tạo, bởi họ không có những trang thiết bị cần thiết và nghiên cứu vốn không phải là nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan quản lý nhà nước. Còn đối với doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp, nơi có chức năng nghiên cứu, triển khai ứng dụng các kết quả vào sản xuất thì lại thiếu cán bộ có trình độ cao để nghiên cứu và nhận chuyển giao công nghệ mới.
Kết quả nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học: Từ năm 2000 - 2005, đã thực hiện tổng cộng 18 đề tài liên quan đến ứng dụng công nghệ sinh học, tập trung vào tiến bộ kỹ thuật sản xuất lúa, cây ăn trái, rau màu, thủy sản và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Sản xuất nông nghiệp, các giống cây, con mới đã được đưa vào thử nghiệm, tuyển chọn và nhân nhanh trong sản xuất. Có 10 giống lúa mới, ngắn ngày, phẩm chất tốt, thích nghi với đồng ruộng, trong đó giống TNĐB128, được tạo ra từ phương pháp gây đột biến gen, hiện chiếm 30% diện tích lúa của tỉnh, 5 giống rau màu mới như bắp lai, ớt lai, đậu nành; 11 giống cây ăn trái; các giống gia súc như heo lai ngoại Yorshire, Landrac, Duroc; các giống bò lai Sind, bò HF,...
Công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật được thực hiện để nhân các giống có giá trị kinh tế cao như phong lan, dứa, chuối; vi ghép sản xuất giống cây có múi sạch bệnh, sản xuất giống nấm ăn và dược liệu; sản xuất các loại phân bón, chất kích thích ra hoa, đậu quả trên cây trồng; ứng dụng dòng nấm đối kháng phòng trị bệnh thối rễ trên cam, quýt; tiếp nhận quy trình sinh sản nhân tạo tôm giống càng xanh, cá rô phi dòng gif; ứng dụng gieo tinh nhân tạo trên bò, heo được sử dụng phổ biến và mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần cải thiện chất lượng con giống địa phương.
Sản xuất thực phẩm, ứng dụng vi sinh vật rút ngắn thời gian sản xuất nước mắm, sử dụng giống meo thuần chủng nâng cao chất lượng tương, chao, ứng dụng phổ biến nhất trong việc sản xuất rượu, nem chua, giấm và các sản phẩm lên men khác.
Y tế, chủ yếu là ứng dụng phục vụ việc chẩn đoán và xét nghiệm HIV; ứng dụng các loại vacxin phòng bệnh cho nhân dân.
Môi trường, ứng dụng chế phẩm sinh học trong xử lý ô nhiễm chuồng trại chăn nuôi, bãi rác, ủ phân hữu cơ; xử lý rơm sau thu hoạch, xử lý môi trường nước nuôi thuỷ sản, các chế phẩm sinh học bảo vệ thực vật có khả năng thay thế hoá chất có tính độc hại cao đối với môi trường.
Qua quá trình nghiên cứu và ứng dụng, tiềm lực công nghệ sinh học đã từng bước được nâng lên thông qua đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, trình độ thâm canh trong sản xuất và kỹ thuật sử dụng giống tốt thay đổi rõ nét, từng bước tăng cường các trang thiết bị, tạo lập được mối quan hệ hợp tác nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học với các viện, trường, trung tâm nghiên cứu trong khu vực và cả nước.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học tại tỉnh trong thời gian qua vẫn chưa tạo ra được những đột phá về năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả đầu tư, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của sự phát triển. Một số đề tài, dự án về công nghệ sinh học chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu quy trình, tạo sản phẩm thử nghiệm, việc ứng dụng vào sản xuất chưa mang lại hiệu quả cao. Mạng lưới nhân giống có phát triển nhưng chưa đáp ứng cho nhu cầu sản xuất, chưa thật sự ổn định, nhất là các cơ sở nhân giống bán chuyên nghiệp và hộ cá thể. Mô hình nhân giống tuy đạt hiệu quả nhưng do giá thị trường biến động ở một vài sản phẩm nông nghiệp nên đã làm hạn chế qui mô sản xuất giống.
Nguyên nhân tồn tại trên có thể do nhận thức của các cấp, các ngành, doanh nghiệp và nhân dân còn hạn chế, chưa thấy rõ hiệu quả và tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sản xuất. Mức đầu tư nâng cao tiềm lực về công nghệ sinh học còn rất hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu của thực tiễn sản xuất. Đầu tư các trang thiết bị theo hướng hiện đại chưa được chú trọng, cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học vẫn còn rất lạc hậu. Chưa có chính sách rõ ràng và hợp lý của nhà nước cho việc triển khai các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất. Thêm vào đó, việc đào tạo đội ngũ cán bộ có sau đại học chưa được khuyến khích đúng mức. Chính sách thu hút và việc bố trí, sử dụng nhân lực có trình độ sau đại học ở lĩnh vực công nghệ sinh học để phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh vẫn còn nhiều bất cập và chưa thật sự phát huy được hiệu quả.
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ SINH HỌC TỈNH VĨNH LONG GIAI ĐOẠN 2007 - 2015
- Đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cho sự phát triển, trong đó chú trọng đầu tư phát triển công nghệ sinh học, đồng thời khuyến khích, hỗ trợ các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu, ứng dụng.
- Tiếp thu, ứng dụng các thành tựu công nghệ sinh học trên thế giới và trong nước là chính, kết hợp với phát huy nội lực, tiềm năng để khai thác các lợi thế của tỉnh, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tạo ra các công nghệ và sản phẩm công nghệ sinh học đặc thù của tỉnh.
- Phát triển tiềm lực công nghệ sinh học trên cơ sở đầu tư đúng mức về trang thiết bị, cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ nghiên cứu. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực công nghệ sinh học thông qua kênh đào tạo chính quy, hoạt động chuyển giao công nghệ và qua việc hợp tác thực hiện đề tài, dự án khoa học. Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu về công nghệ sinh học trong nước và quốc tế.
- Phát triển công nghệ sinh học phải hướng đến việc phục vụ thiết thực các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh, nhất là mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh các sản phẩm hàng hoá của tỉnh trong nước và quốc tế.
II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Mục tiêu
- Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể và toàn xã hội về vai trò, vị trí quan trọng của công nghệ sinh học đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Nâng cao tiềm lực công nghệ sinh học, trong đó chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, đảm bảo đến năm 2015, có đủ cán bộ chuyên ngành để tiếp thu, ứng dụng được các công nghệ tiên tiến nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng, mang lại hiệu quả kinh tế cho tỉnh.
- Sản xuất các giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản có năng suất, chất lượng, các chế phẩm sinh học sử dụng trong nông nghiệp, môi trường phù hợp với điều kiện sinh thái của tỉnh, phục vụ tốt nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học trong công nghiệp và môi trường, nhất là công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm nhằm tạo ra lượng sản phẩm hàng hoá lớn, có giá trị kinh tế cao, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh và giải quyết được lượng nông sản từ sản xuất nông nghiệp.
- Đến năm 2015, từng bước phát triển công nghệ sinh học thành một ngành kinh tế kỹ thuật công nghệ cao để sản xuất một số sản phẩm hàng hoá có đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh, trong đó ưu tiên các sản phẩm từ nông nghiệp, công nghệ thực phẩm và các chế phẩm sinh học sử dụng trong nông nghiệp và môi trường.
2. Nhiệm vụ
Trong điều kiện của tỉnh khi tiềm lực công nghệ sinh học còn hạn chế, những năm tới phát triển công nghệ sinh học cần tập trung vào những nội dung sau:
a) Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao kiến thức công nghệ sinh học trong cộng đồng
- Công nghệ sinh học ngày càng có vai trò quan trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế của một quốc gia hay địa phương. Vì vậy, thông tin, phổ biến nâng cao nhận thức, kiến thức về sự cần thiết của việc ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học trong quá trình phát triển kinh tế là hết sức quan trọng. Công tác này cần được thực hiện thường xuyên đến các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, đoàn thể và cộng đồng nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể và toàn xã hội về công nghệ sinh học.
- Đổi mới và đẩy mạnh phát triển tạp chí thông tin khoa học và công nghệ nhằm cung cấp các thông tin về thành tựu và ứng dụng công nghệ sinh học, chính sách, pháp luật liên quan đến hoạt động khoa học và công nghệ.
b) Tăng cường phát triển tiềm lực công nghệ sinh học
- Quy hoạch đào tạo, thu hút nguồn nhân lực cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học. Cần quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học, nhất là ở các đơn vị nghiên cứu, đảm bảo đến năm 2015, có đủ cán bộ, đặc biệt là cán bộ có trình độ sau đại học để nghiên cứu, ứng dụng và nhận chuyển giao công nghệ sản xuất, tạo ra các sản phẩm công nghệ sinh học. Hoàn thiện cơ chế khuyến khích đào tạo sau đại học và chính sách đãi ngộ nhân tài nhằm thu hút cán bộ có trình độ cao về công tác tại các doanh nghiệp và đơn vị nghiên cứu trong tỉnh.
- Đầu tư, nâng cấp các phòng thí nghiệm sinh học, trung tâm nghiên cứu về giống nông nghiệp, về bảo quản và chế biến nông sản, thực phẩm. Phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu công nghệ sinh học có đủ các trang thiết bị là điều kiện thiết yếu cho các cán bộ tham gia nghiên cứu, triển khai ứng dụng và tạo ra các sản phẩm cho xã hội. Để phát huy được hiệu quả ứng dụng công nghệ sinh học, từ nay đến năm 2015, từng bước đầu tư mới hoặc nâng cấp các phòng thí nghiệm hiện có, với các trang thiết bị hiện đại hơn, ưu tiên nâng cấp phòng thí nghiệm của Trung tâm Giống thuộc Sở Nông nghiệp, phòng thí nghiệm của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật thuộc Sở Khoa học và Công nghệ, Trung tâm Kiểm nghiệm Thuốc - Mỹ phẩm - Thực phẩm Vĩnh Long và các trang thiết bị thuộc Bệnh viện Đa khoa tỉnh.
- Xúc tiến thành lập Trung tâm Công nghệ sinh học trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên cơ sở phát triển Trung tâm Giống nông nghiệp thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Chú trọng việc tạo lập mối quan hệ hợp tác khoa học về công nghệ sinh học trong và ngoài nước góp phần nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ của tỉnh. Trước hết cần xây dựng và triển khai các đề tài, dự án hợp tác với các tổ chức khoa học trong và ngoài nước để nâng cao kiến thức và công nghệ cho sự phát triển công nghệ sinh học của tỉnh. Nhận chuyển giao công nghệ nhằm đẩy nhanh việc sản xuất một số sản phẩm giống cây trồng, vật nuôi, giống thủy sản, các chế phẩm sinh học,...phù hợp với điều kiện của tỉnh.
c) Ứng dụng có hiệu quả công nghệ sinh học vào sản xuất và đời sống Trong sản xuất nông nghiệp:
- Đẩy mạnh việc chọn, tạo giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng làm giống chủ lực của tỉnh thông qua việc nghiên cứu, khảo nghiệm. Nhận chuyển giao công nghệ để sản xuất giống lúa xuất khẩu, lúa đặc sản, lúa giàu dinh dưỡng, giống cây ăn trái, giống vật nuôi và giống thủy sản.
- Ứng dụng hoặc tiếp nhận chuyển giao công nghệ để phát triển các giống rau, nấm ăn có năng suất, chất lượng phù hợp với điều kiện của tỉnh.
- Phát triển một số loài thực vật để trích ly dược liệu sử dụng trong y học và chế biến thực phẩm phù hợp với điều kiện của tỉnh.
- Nghiên cứu, ứng dụng hoặc tiếp nhận chuyển giao công nghệ sản xuất các chế phẩm sinh học phục vụ nông nghiệp. Chú trọng việc thu hút các nhà đầu tư sản xuất các chế phẩm sinh học bảo vệ cây trồng, chất kích thích tăng trưởng, chế phẩm, vacxin dùng cho vật nuôi, thủy sản, chế phẩm dùng bảo quản, chế biến nông sản.
Phổ biến, nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả kinh tế cao, tăng cường áp dụng các giải pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp, khuyến khích người dân sử dụng thuốc trừ sâu sinh học, phân hữu cơ vi sinh,...
Trong công nghệ chế biến:
- Nghiên cứu, sản xuất hoặc chuyển giao công nghệ bảo quản nông sản, thực phẩm như lúa, trái cây, rau, củ, thịt, cá,...
- Ứng dụng công nghệ vi sinh vật để cải tiến công nghệ hoặc chuyển giao công nghệ sản xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm nước chấm, rượu bia, tương, chao và các sản phẩm chế biến khác từ nông sản, thực phẩm theo hướng an toàn vệ sinh thực phẩm.
Bảo vệ môi trường:
- Ứng dụng công nghệ vi sinh hoặc chuyển giao công nghệ xử lý nước thải bệnh viện, nước thải từ chăn nuôi, giết mổ gia súc, gia cầm và xử lý nước thải từ quá trình chế biến nông sản, thực phẩm.
- Nghiên cứu, ứng dụng một số loài thực vật để xây dựng các mô hình xử lý nước thải ô nhiễm hữu cơ.
- Nghiên cứu, ứng dụng hoặc tiếp nhận công nghệ vi sinh vật để xử lý chất thải rắn.
- Nghiên cứu, ứng dụng hoặc tiếp nhận chuyển giao công nghệ sản xuất các chế phẩm sinh học xử lý môi trường, tập trung sản xuất các chế phẩm sinh học cải tạo đất, xử lý nguồn nước và xử lý ô nhiễm môi trường.
d) Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp sinh học
Đến năm 2015 và những năm tiếp theo, từng bước đầu tư phát triển công nghệ sinh học thành một ngành kinh tế kỹ thuật để sản xuất các sản phẩm có đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Trong đó, lựa chọn và tập trung sản xuất các sản phẩm giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, các sản phẩm chế biến từ nông sản, thực phẩm và các chế phẩm sinh học sử dụng cho cây trồng, vật nuôi, thủy sản, xử lý môi trường.
3. Các giải pháp chủ yếu cho việc phát triển công nghệ sinh học
Giai đoạn 2007 - 2015, để đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tỉnh cần chú trọng đầu tư phát triển công nghiệp, trong đó ưu tiên đầu tư phát triển công nghệ cao (công nghệ sinh học) để sản xuất các sản phẩm chủ lực, có lợi thế cạnh tranh nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững.
a) Thông tin tuyên truyền nâng cao nhận thức và kiến thức về công nghệ sinh học trong xã hội
Cần nâng cao nhận thức của các cấp về vị trí, vai trò của công nghệ sinh học trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển công nghệ sinh học phải thành chương trình, kế hoạch, đề án từng ngành, từng địa phương trên cơ sở đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của sự phát triển.
Trong điều kiện của tỉnh, từ nay đến năm 2015, Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị, đoàn thể cần tổ chức quán triệt Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 04/3/2005 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Triển khai thực hiện tốt Quyết định số 188/2005/QĐ-TTg , ngày 22/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị trên, Quyết định 212/2005/QĐ-TTg , ngày 26/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành quy chế quản lý an toàn sinh học đối với sinh vật biến đổi gen, sản phẩm hàng hoá có nguồn gốc từ sinh vật biến đổi gen và các văn bản pháp luật khác có liên quan nhằm tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp uỷ Đảng, các ngành, địa phương và toàn xã hội về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công nghệ sinh học trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời, cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng thành những kế hoạch, chương trình, dự án cụ thể, sát với thực tiễn nhằm ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học của từng ngành, từng địa phương vào sản xuất để góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Phát huy hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức về phát triển công nghệ sinh học đến cộng đồng. Xây dựng và lồng ghép các kiến thức pháp luật về công nghệ sinh học, các mô hình sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao vào chương trình truyền thanh, truyền hình để chuyển tải đến cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức và xác định rõ quyền lợi, trách nhiệm của mỗi công dân và toàn xã hội.
b) Nâng cao năng lực nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất
Công nghệ sinh học đòi hỏi tiềm lực nghiên cứu, triển khai đủ mạnh thì mới phát huy được hiệu quả ứng dụng của nó. Trong đó, có các yếu tố về đội ngũ cán bộ, hệ thống phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu có cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, chính sách hỗ trợ hợp lý để gắn kết việc triển khai các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, tạo ra sản phẩm. Trong các yếu tố trên, nhân lực vẫn đóng vai trò quan trọng. Do vậy, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực công nghệ sinh học, nhất là cán bộ có trình độ trên đại học cần được ưu tiên triển khai thực hiện.
Để có đủ nhân lực cho việc ứng dụng công nghệ sinh học trong những năm tới, cần xây dựng dự án đào tạo và cơ chế, chính sách hỗ trợ hợp lý hơn nữa về tài chính để khuyến khích cán bộ đang công tác tại các đơn vị nghiên cứu trong tỉnh theo học sau đại học trong và ngoài nước. Dự án này đã và đang lồng ghép với Dự án đào tạo 100 cán bộ sau đại học ở nước ngoài theo quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Bên cạnh đó, có thể đào tạo cán bộ sau đại học thông qua việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, qua việc gắn kết với hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường đại học và các viện nghiên cứu. Tỉnh cũng cần có chính sách đãi ngộ phù hợp như trả thù lao hợp lý cho các công trình nghiên cứu đạt kết quả cao, trợ cấp về lương, hỗ trợ vay tín dụng ưu đãi để mua xe, nhà đất,... nhằm thu hút cán bộ có trình độ cao cộng tác trong nghiên cứu, triển khai thông qua đề tài, dự án hoặc về công tác tại các doanh nghiệp, đơn vị nghiên cứu trong tỉnh. Kế hoạch đào tạo, cần thực hiện theo hai hướng:
- Đào tạo đội ngũ cán bộ đầu đàn, khoảng 5 - 10 cán bộ có trình độ tiến sĩ chuyên ngành ở lĩnh vực công nghệ sinh học nông nghiệp, công nghệ thực phẩm và môi trường để định hướng và dẫn dắt nhiệm vụ nghiên cứu triển khai, có khả năng tiếp cận và sáng tạo công nghệ mới trong lĩnh vực khoa học, tạo ra được các sản phẩm cho xã hội.
- Đào tạo đội ngũ nhân lực cần thiết, khoảng 100 người có trình độ thạc sĩ, đại học và kỹ thuật viên chuyên ngành (trong đó có 30 thạc sĩ). Ưu tiên ở lĩnh vực công nghệ sinh học nông nghiệp, công nghệ thực phẩm và môi trường để triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất hoặc ứng dụng công nghệ của nước ngoài để sản xuất sản phẩm công nghệ sinh học. Đây là lực lượng thực hành chính để đưa công nghệ sinh học vào thực tiễn sản xuất, phát triển ngành công nghiệp sinh học trong những năm tới.
Song song với đào tạo cán bộ thì việc tăng cường đầu tư nâng cấp hoặc xây dựng mới các phòng thí nghiệm công nghệ sinh học, nhất là các phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu về giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, thực phẩm và môi trường là rất cần thiết cho việc nghiên cứu, ứng dụng các kết quả vào sản xuất.
Kết quả điều tra cũng cho thấy, số đơn vị có chức năng nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất tại tỉnh còn quá ít, nhất là trong lĩnh vực công nghệ sinh học. Thêm vào đó, số cán bộ được đào tạo chuyên sâu ở các đơn vị này chiếm tỷ lệ rất nhỏ, lại chưa có cán bộ đầu đàn, nên không đủ sức tạo ra những đột phá trong nghiên cứu khoa học. Vì lẽ đó, việc xúc tiến thành lập Trung tâm Công nghệ sinh học trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên cơ sở nâng cấp Trung tâm Giống là cần thiết song song với việc đào tạo và đầu tư trang thiết bị như đã phân tích ở phần trên. Trung tâm Công nghệ sinh học có nhiệm vụ mới rộng hơn, không chỉ nghiên cứu, triển khai, sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản mà còn có nhiệm vụ ứng dụng, sản xuất các chế phẩm sinh học dùng trong nông nghiệp, môi trường; nghiên cứu, ứng dụng trong lĩnh vực bảo quản nông sản sau thu hoạch, chế biến nông sản, thực phẩm theo hướng an toàn, phù hợp với điều kiện của tỉnh.
c) Kết hợp hài hoà giữa phát triển công nghệ sinh học với phát triển kinh tế - xã hội
Chương trình hành động của Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định 188/2005/QĐ-TTg đã giao nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, địa phương trong việc ưu tiên lồng ghép kế hoạch phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm. Song, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học (giai đoạn 2007 - 2015) tại tỉnh, các Sở, ngành có hoạt động liên quan đến lĩnh vực công nghệ sinh học như Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công nghiệp, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Y tế,... cần dựa trên các văn bản hướng dẫn của Trung ương và Đề án này để chủ động xây dựng chương trình, dự án cụ thể về công nghệ sinh học ứng dụng cho ngành mình và lồng ghép vào kế hoạch công tác hàng năm của đơn vị. Uỷ ban nhân dân tỉnh cần chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá hàng năm và điều chỉnh các chương trình, dự án cho phù hợp theo từng giai đoạn phát triển. Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Sở Tài chính cân đối nguồn vốn, ưu tiên phân bổ kinh phí để thực hiện các chương trình, dự án phát triển công nghệ sinh học theo Đề án đã được phê duyệt.
d) Đa dạng hoá vốn đầu tư phát triển công nghệ sinh học
Qua số liệu điều tra cho thấy, thực trạng và tiềm lực công nghệ sinh học của tỉnh còn thấp, do vậy muốn phát triển công nghệ sinh học đòi hỏi đầu tư kinh phí rất lớn. Trong khi nguồn kinh phí của tỉnh còn hạn hẹp, việc khai thác các nguồn vốn khác để tạo sự chuyển biến rõ nét trong đầu tư phát triển công nghệ sinh học sẽ có ý nghĩa thiết thực cho việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học, tạo ra các sản phẩm thiết yếu, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Để thực hiện tốt giải pháp này, các ngành liên quan cần chủ động và nhanh chóng xây dựng các chương trình, dự án khả thi về công nghệ sinh học trình Uỷ ban nhân dân tỉnh để có thể mời gọi đầu tư thông qua nguồn vốn Trung ương, vốn các Bộ, ngành (ngoài vốn ngân sách tỉnh), vốn đầu tư của doanh nghiệp trong và ngoài nước, vốn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ, ngân hàng thế giới, ngân hàng Châu Á, vốn vay ưu đãi từ quỹ phát triển khoa học và công nghệ trung ương, địa phương, vốn sự nghiệp môi trường,... Cơ cấu về vốn được phân thành các nguồn vốn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước (trung ương): Chiếm tỷ lệ 15%.
- Vốn ngân sách nhà nước (địa phương): Chiếm tỷ lệ 55%.
- Vốn tài trợ thông qua các tổ chức quốc tế: Chiếm tỷ lệ 10%.
- Vốn mời gọi đầu tư qua doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân: Tỷ lệ 20%.
e) Giải pháp về khoa học và công nghệ
- Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, triển khai các dự án sản xuất thử nghiệm về công nghệ sinh học.
Cần tăng cường phân bổ kinh phí cho hoạt động nghiên cứu, triển khai các đề tài, dự án về công nghệ sinh học hàng năm, ít nhất chiếm tỷ lệ từ 25 - 35% tổng kinh phí sự nghiệp khoa học của tỉnh. Ưu tiên các đề tài, dự án sản xuất giống cây trồng, giống vật nuôi, thủy sản có năng suất cao, chất lượng tốt và kháng sâu bệnh. Đồng thời chủ động nghiên cứu, sản xuất các chế phẩm sinh học dùng trong nông nghiệp, môi trường và sản xuất các sản phẩm chế biến từ nông sản, thực phẩm bằng công nghệ sinh học.
Công nghệ sinh học là lĩnh vực có mối liên hệ chặt chẽ giữa nghiên cứu ứng dụng, sản xuất công nghiệp và kinh doanh sản phẩm trên thị trường. Do vậy, nếu không có sự điều chỉnh hợp lý sẽ không có cơ hội tạo ra các sản phẩm từ nghiên cứu khoa học. Việc cần làm là xây dựng một chính sách khuyến khích, hỗ trợ hợp lý về tài chính, hỗ trợ xây dựng thương hiệu và trợ giá sản phẩm cùng với chính sách khuyến khích thành lập doanh nghiệp, xí nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ sinh học (sẽ được đề cập ở mục sau) để gắn kết triển khai các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, tạo ra sản phẩm công nghệ sinh học cho xã hội.
- Chuyển giao công nghệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Chuyển giao công nghệ là hoạt động hết sức quan trọng thúc đẩy phát triển công nghệ sinh học của tỉnh. Trong điều kiện của tỉnh hiện nay, chưa đủ cán bộ đầu đàn về công nghệ sinh học thì việc nhận chuyển giao công nghệ để sản xuất, tạo ra sản phẩm hàng hoá, mang lại hiệu quả kinh tế cho tỉnh là giải pháp rất cần thiết. Bên cạnh đó, thông qua việc nhận chuyển giao công nghệ sẽ giúp đào tạo nâng cao trình độ nhân lực công nghệ sinh học của tỉnh.
Sở hữu trí tuệ có giá trị rất lớn khi tạo ra được thương hiệu uy tín, công nghệ mới, nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khi mà khoa học công nghệ ngày càng đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Thực hiện tốt việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không chỉ thuận lợi hơn cho việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, mà còn đảm bảo lợi ích cho nhà khoa học, khuyến khích họ nghiên cứu, phát minh ra công nghệ mới, tìm ra các giải pháp hữu ích, mang tính thực tiễn và đem hiệu quả kinh tế cao cho xã hội.
- Hợp tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học. Tăng cường phối hợp với các viện, trung tâm nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài nước để trao đổi, học tập, nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học vào các lĩnh vực kinh tế trọng điểm, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghệ thực phẩm, môi trường để từng bước hình thành và phát triển ngành công nghiệp sinh học của tỉnh. Cùng với giải pháp đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư, thì đây là giải pháp quan trọng không chỉ tận dụng được nguồn tài chính của các tổ chức quốc tế (thông qua tài trợ), mà còn hỗ trợ đắc lực cho việc đào tạo nhân lực về công nghệ sinh học của tỉnh.
f) Xã hội hoá và khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp sinh học
Để thực hiện thành công các nội dung của Đề án Phát triển công nghệ sinh học, giai đoạn 2007 - 2015, thì nhất thiết phải có sự tham gia tích cực và hiệu quả của các thành phần kinh tế, khi mà nguồn lực tài chính và trình độ công nghệ của tỉnh còn hạn chế.
Do vậy, trong thời gian tới, tỉnh cần xây dựng và thông tin các cơ chế, chính sách về đất đai, thuế, tài chính, môi trường đầu tư,... để khuyến khích thành lập các đơn vị ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất tạo ra sản phẩm. Khuyến khích thành lập công ty, doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm công nghệ sinh học như giống cây trồng, vật nuôi, giống thủy sản, sản xuất thực phẩm an toàn, sản xuất các chế phẩm sinh học dùng trong chăn nuôi, thủy sản, môi trường,... để tạo nguồn thu, góp phần đáng kể cho sự tăng trưởng kinh tế và giải quyết lao động, việc làm tại tỉnh.
g) Liên kết sản xuất và phát triển thị trường sản phẩm công nghệ sinh học
Chúng ta phải công nhận rằng, các sản phẩm tạo ra từ công nghệ sinh học đã góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế, một phần có sự đóng góp quan trọng của các nhà khoa học trong việc tạo ra quy trình công nghệ để ứng dụng vào thực tiễn sản xuất.
Các sản phẩm sản xuất từ nông nghiệp có năng suất và chất lượng là một ví dụ cho thấy vai trò của các nhà khoa học trong việc ứng dụng công nghệ sinh học để lai, tạo giống có các đặc tính như năng suất cao, chất lượng ngon,... Tuy vậy, với đặc điểm sản xuất nhỏ lẻ như hiện nay và không có thương hiệu thì không thể tạo ra được sản lượng hàng hoá lớn, đồng đều về chủng loại, chất lượng ngon, có uy tín trên thị trường để bán được giá cao, mang lại thu nhập lớn cho người sản xuất và doanh nghiệp.
Thực hiện Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng, trên cơ sở liên kết bốn nhà, Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long ban hành văn bản chỉ đạo các ban, ngành thực hiện. Tập trung hai mặt hàng chính là lúa gạo và thủy sản, các sản phẩm kế tiếp là bưởi năm roi, nấm rơm,... Tuy vậy, quá trình thực hiện thì sự phối hợp, liên kết giữa bốn nhà chưa được chặt chẽ lắm. Mô hình liên kết bốn nhà rất khó thực hiện, nếu không sớm có các văn bản pháp lý ràng buộc, giải quyết hài hoà giữa quyền lợi và trách nhiệm các bên tham gia sẽ dẫn đến tình trạng doanh nghiệp hoặc người sản xuất đơn phương hủy bỏ hợp đồng hoặc tiêu thụ sản phẩm cầm chừng. Đây là vấn đề lớn đặt ra cho các nhà quản lý từ Trung ương đến địa phương trong việc thực hiện Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ. Vì vậy, cần sớm ban hành các quy định, chế tài kiểm soát, quản lý, tạo động lực mới chung cho cả nước để phát triển nhanh, vững chắc nền kinh tế hàng hoá, trước xu thế hội nhập.
Thật vậy, việc tổ chức liên kết sản xuất như là một xu thế tất yếu để sản xuất lớn trong quá trình hội nhập kinh tế cần được các cấp lãnh đạo cân nhắc và triển khai thực hiện, đó là sự "liên kết thật sự" giữa "nhà khoa học, nhà sản xuất (nhà nông), nhà quản lý và nhà doanh nghiệp" chứ không còn là "khẩu hiệu" liên kết bốn nhà như hiện nay. Trong liên kết sản xuất nông nghiệp, cần có các văn bản quy định, chế tài kiểm soát, quản lý chặt chẽ vai trò và trách nhiệm của các bên liên quan:
- Đối với nhà khoa học ở lĩnh vực công nghệ sinh học, có nhiệm vụ nghiên cứu, tạo ra giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản có năng suất, chất lượng, các chế phẩm sinh học,... để đưa ứng dụng vào thực tiễn sản xuất.
- Đối với nhà sản xuất, mong muốn các sản phẩm của họ phải bán được giá cao và tăng thu nhập. Muốn vậy, họ cần phải thay đổi tập quán sản xuất qui mô hộ gia đình thành sản xuất hàng hoá lớn theo quy hoạch vùng sản xuất và nhằm hạn chế sự ép giá của tư thương thì các hộ sản xuất phải liên kết với nhau trong một hợp tác xã hay hiệp hội nào đó, để hỗ trợ nhau các thông tin về khoa học công nghệ, dịch vụ nông nghiệp, thị trường tiêu thụ,... có như vậy mới tạo ra được lượng hàng hoá lớn, có chất lượng và bán được giá cao trên thị trường.
- Đối với nhà doanh nghiệp, giữ nhiệm vụ liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá tạo ra từ sản xuất nông nghiệp. Nhà doanh nghiệp luôn quan tâm việc quảng bá sản phẩm, thương hiệu nhằm tăng lượng sản phẩm tiêu thụ trên thị trường và mang lại lợi nhuận cao. Sự thành công của họ không chỉ đẩy mạnh sản xuất, thúc đẩy nghiên cứu khoa học mà còn đóng góp thiết thực vào sự tăng trưởng kinh tế.
- Đối với Nhà nước, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng để điều hoà mối liên kết bốn nhà. Nhà nước có vai trò hỗ trợ, định hướng nghiên cứu khoa học, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hoàn thiện hệ thống thủy lợi, cung cấp thông tin khoa học công nghệ, thị trường tiêu thụ và phân vùng sản xuất để tạo ra lượng hàng hoá lớn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, các văn bản, chế tài điều chỉnh mối liên kết bốn nhà, các cơ chế chính sách hỗ trợ nhà sản xuất, doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm,...
Đề án Phát triển công nghệ sinh học được xem là nền tảng của mọi hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2007 - 2015. Do vậy, để đề án được triển khai hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong thời gian tới, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo:
1. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ, các đơn vị Sở, ban, ngành, Uỷ ban nhân dân các huyện - thị xã có trách nhiệm lồng ghép nội dung Đề án này vào các chương trình, kế hoạch của ngành, địa phương trong quá trình hoạt động.
2. Thủ trưởng các Sở, ban, ngành cấp tỉnh liên quan và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện - thị xã có nhiệm vụ cụ thể:
2.1. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
- Là cơ quan chủ trì, tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh triển khai thực hiện Đề án này. Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các nội dung của Đề án phát triển công nghệ sinh học tại các ngành, địa phương liên quan. Định kỳ hàng năm, đánh giá kết quả thực hiện, báo cáo về Uỷ ban nhân dân tỉnh.
- Căn cứ các văn bản hướng dẫn của Trung ương và Đề án này, chỉ đạo các đơn vị trực thuộc xây dựng và triển khai chương trình, dự án cụ thể ứng dụng công nghệ sinh học để sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, giống thủy sản và sản xuất các chế phẩm sinh học trong nông nghiệp. Lồng ghép nội dung Chương trình giống vào Đề án phát triển công nghệ sinh học để tiết kiệm kinh phí, tận dụng nguồn lực và cơ sở vật chất.
- Phối hợp với Sở Nội vụ xây dựng đề án thành lập Trung tâm Công nghệ sinh học trên cơ sở phát triển Trung tâm Giống trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Xây dựng hoặc điều chỉnh các quy hoạch vùng trồng lúa, cây ăn trái và vùng nuôi thủy sản phù hợp với điều kiện sinh thái của tỉnh.
- Phối hợp với các Sở, ngành, địa phương triển khai nhân rộng trong toàn tỉnh các mô hình ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao. Đẩy mạnh việc áp dụng giải pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp, khuyến khích người dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học, phân hữu cơ vi sinh và các chế phẩm sinh học trong sản xuất nông nghiệp.
2.2. Sở Khoa học và Công nghệ:
- Phối hợp với Sở Văn hoá - Thông tin, Đài Phát thanh Truyền hình và các Sở, ban, ngành liên quan thực hiện việc thông tin, tuyên truyền phổ biến các văn bản pháp luật về công nghệ sinh học, các kết quả nghiên cứu khoa học, kết quả chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ công nghệ sinh học vào sản xuất và đời sống nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, kiến thức của các ngành, các cấp và toàn xã hội về vai trò và tầm quan trọng của công nghệ sinh học trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Hàng năm, phối hợp với Sở, ngành, viện, trường đại học tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh tuyển chọn các đề tài, dự án triển khai về công nghệ sinh học, trong đó ưu tiên các đề tài, dự án sản xuất về giống cây trồng, vật nuôi, giống thủy sản; đề tài, dự án sản xuất các sản phẩm nông sản, thực phẩm, bảo quản nông sản sau thu hoạch, sản xuất các chế phẩm sinh học và đề tài, dự án xử lý ô nhiễm môi trường. Tổng hợp danh mục các đề tài, dự án nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ sinh học của các ngành, địa phương trình Uỷ ban nhân dân tỉnh.
- Đẩy mạnh hợp tác trong và ngoài nước cho việc nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ sinh học. Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, triển khai các dự án sản xuất, tạo ra các sản phẩm công nghệ sinh học.
- Đẩy mạnh việc triển khai, hướng dẫn các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhất là trong lĩnh vực công nghệ sinh học. Hỗ trợ việc xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm công nghệ sinh học trên địa bàn tỉnh.
2.3. Sở Công nghiệp:
- Xây dựng và triển khai dự án cụ thể ứng dụng công nghệ sinh học trong công nghệ chế biến nông sản, thực phẩm, trong bảo quản nông sản sau thu hoạch.
- Căn cứ các văn bản hướng dẫn của Trung ương và Đề án này để xây dựng đề án phát triển ngành công nghiệp sinh học.
2.4. Sở Y tế:
- Chỉ đạo, xây dựng dự án tăng cường tiềm lực về cơ sở vật chất kỹ thuật cho Trung tâm Kiểm nghiệm Thuốc - Mỹ phẩm - Thực phẩm, Bệnh viện Đa khoa tỉnh phục vụ điều trị và nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực y tế.
- Căn cứ các văn bản hướng dẫn của Trung ương và Đề án này để xây dựng chương trình, dự án cụ thể ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực y tế. Quản lý và xử lý chất thải y tế theo các quy định của Nhà nước.
2.5. Sở Tài nguyên và Môi trường:
- Căn cứ các văn bản hướng dẫn của Trung ương và Đề án này để xây dựng và triển khai chương trình, dự án cụ thể ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, nhất là dự án xử lý rác thải, nước thải công nghiệp. Hỗ trợ doanh nghiệp các giải pháp sản xuất sạch hơn, khuyến khích tổ chức, cá nhân sử dụng chế phẩm sinh học trong xử lý môi trường.
- Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn các ngành, các cấp và toàn xã hội thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn sinh học.
2.6. Sở Tư pháp phối hợp với các ngành liên quan tổ chức tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật về công nghệ sinh học đến các tầng lớp trong xã hội.
Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp Sở Tài chính và các ngành liên quan xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập doanh nghiệp, xí nghiệp sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ sinh học. Xây dựng quy định, chế tài cần thiết để điều chỉnh mối liên kết bốn nhà nhằm sản xuất và phát triển thị trường sản phẩm công nghệ sinh học. Cân đối, bố trí vốn ngân sách nhà nước trong kế hoạch hàng năm và dài hạn để thực hiện các nội dung, chương trình, dự án của Đề án Phát triển công nghệ sinh học đạt hiệu quả.
Uỷ ban nhân dân tỉnh đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các hội, đoàn thể từ cấp tỉnh đến cơ sở phối hợp chặt chẽ với các ngành, đơn vị trong công tác vận động, phát động tham gia triển khai thực hiện Đề án này.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã căn cứ vào nội dung đề án, lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của địa phương. Phối hợp với các Sở, ban, ngành liên quan triển khai ứng dụng hiệu quả các chương trình, dự án công nghệ sinh học vào sản xuất, đời sống.
Trong quá trình triển khai thực hiện, nếu có khó khăn phát sinh, đề nghị các Sở, ban, ngành tỉnh, Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã báo cáo kịp thời về Uỷ ban nhân dân tỉnh để xem xét, giải quyết./.
- 1Quyết định 188/2005/QĐ-TTg về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Chỉ thị 50-CT/TW về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 2Quyết định 212/2005/QĐ-TTg về quy chế quản lý an toàn sinh học đối với các sinh vật biến đổi gen; sản phẩm, hàng hoá có nguồn gốc từ sinh vật biến đổi gen do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 3Quyết định 11/2006/QĐ-TTg phê duyệt "Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020" do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 4Nghị quyết số 18/NQ-CP về việc phát triển công nghệ sinh học ở Việt Nam đến năm 2010 do Chính Phủ ban hành
- 5Quyết định 80/2002/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 6Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân 2003
- 7Quyết định 658/QĐ-UBND năm 2008 Phê duyệt Đề án Đẩy mạnh phát triển và Ứng dụng Công nghệ sinh học (CNSH) trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đến năm 2015 do Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị ban hành
- 8Nghị quyết 46/2007/NQ-HĐND thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - An ninh năm 2007 của tỉnh Vĩnh Long
Quyết định 730/QĐ-UBND năm 2007 phê duyệt Đề án Phát triển công nghệ sinh học tỉnh Vĩnh Long, giai đoạn 2007 - 2015
- Số hiệu: 730/QĐ-UBND
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 05/04/2007
- Nơi ban hành: Tỉnh Vĩnh Long
- Người ký: Lê Thanh Xuân
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Dữ liệu đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 15/04/2007
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định