Để sử dụng toàn bộ tiện ích nâng cao của Hệ Thống Pháp Luật vui lòng lựa chọn và đăng ký gói cước.
Nếu bạn là thành viên. Vui lòng ĐĂNG NHẬP để tiếp tục.
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 146-CT | Hà Nội, ngày 30 tháng 4 năm 1991 |
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC XUẤT KHẨU GỖ VÀ CÁC LOẠI LÂM SẢN KHÁC NĂM 1991 VÀ CÁC NĂM TỚI
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 4-7-1981;
Để tiết kiệm tài nguyên rừng đã giảm sút nghiêm trọng và nâng cao hiệu quả kinh tế của việc xuất khẩu gỗ và các loại lâm sản khác, kết hợp giải quyết công việc làm cho nhân dân;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Giao Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước cùng Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp, Bộ trưởng Bộ Thương nghiệp xem xét, điều chỉnh giảm bớt hạn ngạch xuất khẩu gỗ năm 1991 theo hướng sau:
- Thương lượng để giảm bớt mức xuất khẩu gỗ xẻ, gỗ lạng và gỗ ván sàn theo Nghị định thư. Nếu không giảm được, thì chỉ bảo đảm thực hiện theo mức ta đã cam kết, không tăng thêm.
- Kiểm tra chặt chẽ việc xuất khẩu gỗ thương mại, địa phương, đơn vị nào đã ký hợp đồng với khách hàng rồi và địa phương đã tính toán kỹ thì chấp nhận cho xuất khẩu gỗ xẻ. Địa phương, đơn vị nào tuy đã được phân phối chỉ tiêu xuất, nhưng còn đang tìm kiếm thị trường thì rút lại giấy phép, thôi không cho xuất nữa. Trường hợp đặc biệt, muốn xuất phải xin phép Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
- Đối với địa phương và ngành có cơ sở sản xuất và có khả năng xuất khẩu các sản phẩm bằng gỗ thì ngành lâm nghiệp cung ứng đủ gỗ cho địa phương và ngành làm hàng để xuất, không hạn chế.
Gỗ tồn kho năm 1990 chưa xuất hết thì cũng tính vào hạn ngạch xuất khẩu năm 1991.
Điều 2. Việc hợp tác về lâm nghiệp với tổ chức và cá nhân nước ngoài phải nhằm đầu tư vốn, công nghệ vào việc phát triển trồng rừng và làm ra sản phẩm xuất khẩu. Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu từ phối hợp với Bộ Lâm nghiệp kiểm tra lại các hợp đồng của các địa phương, cơ sở đã ký liên doanh về lâm nghiệp với các tổ chức và cá nhân người nước ngoài. Nếu những hợp đồng đó chỉ liên doanh về khai thác, sơ chế gỗ và lâm sản thì phải thương lượng điều chỉnh lại nội dung hợp đồng theo nguyên tắc chỉ hợp tác trồng rừng và làm ra sản phẩm để xuất khẩu, không hợp tác khai thác rừng tự nhiên để làm ra gỗ xẻ xuất khẩu.
Điều 3. Từ năm 1992 trở đi, các ngành và địa phương chỉ được xuất khẩu các loại sản phẩm làm bằng gỗ và các loại lâm sản đã qua chế biến. Cấm xuất khẩu gỗ ở dạng sơ chế và các loại lâm sản khác chưa qua chế biến. Ngay từ năm 1991, Bộ Lâm nghiệp và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu phải chỉ đạo sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở sản xuất, đầu tư thêm trang, thiết bị hiện đại, đào tạo, bồi dưỡng lại cán bộ quản lý và công nhân, tìm thị trường v.v... để bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ này ngay từ đầu năm 1992.
Điều 4. Giao Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp và Bộ trưởng Bộ Thương nghiệp chịu trách nhiệm hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện Quyết định này.
Điều 5. Các đồng chí Bộ trưởng Chủ nhiệm các Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng các ngành có liên quan và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
| Võ Văn Kiệt (Đã ký) |
Quyết định 146-CT về việc xuất khẩu gỗ và các loại lâm sản khác năm 1991 và các năm tới do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
- Số hiệu: 146-CT
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 30/04/1991
- Nơi ban hành: Hội đồng Bộ trưởng
- Người ký: Võ Văn Kiệt
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 11
- Ngày hiệu lực: Kiểm tra
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra