Điều 25 Quy chế tòa án quốc tế
1. Ngoài những trường hợp đã nêu trong quy chế này, Tòa án họp phiên toàn thể.
2. Trong điều kiện mà số lượng thẩm phán có mặt để lập Tòa án không dưới 11 người, quy chế này của Tòa án có thể cho phép là một hay vài thẩm phán, do hoàn cảnh riêng có thể tham dự, vào các phiên họp một cách hợp lệ.
3. Số lượng thẩm phán hợp lệ để lập phiên họp xét xử là 9 người.
Quy chế tòa án quốc tế
- Số hiệu: Khongso
- Loại văn bản: Điều ước quốc tế
- Ngày ban hành: 26/06/1945
- Nơi ban hành: Quốc hội
- Người ký: ***
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 01/01/1900
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
- Điều 2. Tòa án có cơ cấu là một hội đồng các thẩm phán độc lập, được lựa chọn, không căn cứ quốc tịch, trong số những người có phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng các yêu cầu đề ra ở quốc gia họ để chỉ định vụ xét xử cao nhất, hoặc là những luật gia có uy tín lớn trong lĩnh vực luật quốc tế.
- Điều 3. 1. Tòa án được cấu tạo gồm 15 người, trong đó không thể có 2 công dân của cùng một quốc gia.
- Điều 4. 1. Các ủy viên Tòa án được Đại hội đồng và Hội đồng bảo an lựa chọn trong số những người có tên trong danh sách theo đề nghị của các tiểu ban dân tộc của Pháp viện thường trực quốc tế phù hợp với những nguyên tắc dưới đây.
- Điều 5. 1. Ít nhất là trong vòng 3 tháng, trước khi bầu cử Tổng thư ký liên hiệp quốc gửi cho các ủy viên Pháp viện thường trực quốc tế của các quốc gia thành viên của quy chế này và cho các ủy viên của các tiểu ban dân tộc được chỉ định theo điểm 2 của điều 1 văn bản đề nghị để mỗi một tiểu ban dân tộc, trong khoảng thời hạn quy định, đưa ra những ứng cử viên có thể nhận nhiệm vụ của ủy viên Tòa án.
- Điều 6. Điều cần thiết là mỗi tiểu ban trước khi đưa ra các ứng cử viên, phải hỏi ý kiến các cơ quan xét xử cao nhất, các khoa luật, các trường Cao đẳng tư pháp và các viện Hàn lâm của các quốc gia đó cũng như các phân viện của các viện Hàn lâm quốc tế chuyên nghiên cứu về luật.
- Điều 7. 1. Tổng thư ký Liên hiệp quốc lập danh sách theo thứ tự ABC tất cả những người được đề cử, trừ những trường hợp đã nói ở điểm 2 của Điều 12, chỉ được bầu những người có tên trong danh sách đó.
- Điều 8. Đại hội đồng và Hội đồng bảo an khi bầu cử ủy viên Tòa án hoàn toàn độc lập nhau.
- Điều 9. Khi bầu cử các cử tri cần phải cân nhắc không những chỉ mỗi ứng cử viên nói riêng phải thỏa mãn tất cả những yêu cầu đã nêu ra mà toàn bộ cơ cấu thành phần các thẩm phán nói chung cần phải đảm bảo đại diện của các hình thái văn hóa chủ yếu nhất và các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới.
- Điều 10. 1. Những người được coi là trúng cử là những ứng cử viên được tuyệt đại đa số phiếu bầu cử ở cả Đại hội đồng cũng như ở cả Hội đồng bảo an.
- Điều 11. Nếu sau phiên họp thứ nhất triệu tập để bầu cử có một hoặc vài ghế trống thì phải triệu tập phiên thứ hai, trong trường hợp cần thiết phải triệu tập phiên thứ ba.
- Điều 12. 1. Nếu sau phiên thứ 3 có một hay vài ghế trống thì trong bất kỳ thời gian nào, theo yêu cầu của Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an, ủy ban phối hợp có thể được triệu tập với thành phần gồm 6 ủy viên: 3 ủy viên theo sự chỉ định của Đại hội đồng, 3 ủy viên theo sự chỉ định của Hội đồng bảo an để bầu lấy một người thế vào mỗi ghế trống với số phiếu chiếm tuyệt đại đa số và đệ trình người được đề cử lên Đại hội đồng và Hội đồng bảo an xem xét.
- Điều 13. 1. Các thành viên của Tòa án được bầu cử cho thời hạn 9 năm và có thể được bầu lại, tuy nhiên với một điều kiện là thời hạn toàn quyền của 5 thẩm phán khóa đầu tiên sẽ hết sau 3 năm và thời hạn toàn quyền của 5 thẩm phán kia sẽ hết sau 6 năm.
- Điều 14. Những ghế trống được bổ sung theo trình tự đã được quy định đối với lần bầu cử đầu và phải tuân theo các nguyên tắc dưới đây: trong vòng một tháng sau khi có ghế khuyết, Tổng thư ký gửi giấy mời như đã nêu ở điều 5, còn ngày bầu cử do Hội đồng bảo an ấn định.
- Điều 15. Thành viên của Tòa án được bầu để thay thế một thành viên khác mà thời hạn toàn quyền của người đó chưa hết vẫn ở trọng trách cho đến khi mãn hạn của người mình thay thế.
- Điều 16. 1. Thành viên Tòa án không được thực hiện một nhiệm vụ chính hoặc hành chính nào và không tự cho mình làm một việc nào khác có tính chất nghề nghiệp.
- Điều 17. 1. Không một người nào trong số các thành viên của Tòa án được làm nhiệm vụ chánh án, luật sư hay trạng sư trong bất kỳ vụ án nào.
- Điều 18. 1. Thành viên của Tòa án không được bỏ nhiệm vụ, trừ khi theo ý kiến nhất trí của các thành viên khác, thành viên đó không còn thỏa mãn các yêu cầu đã nêu ra.
- Điều 19. Các thành viên của Tòa án trong khi thực hiện nhiệm vụ xét xử được sử dụng quyền ưu đãi và quyền bất khả xâm phạm về ngoại giao.
- Điều 20. Mỗi thành viên của Tòa án có nghĩa vụ trước khi nhận nhiệm vụ phải trịnh trọng tuyên bố trong phiên họp công khai của Tòa án là sẽ thừa hành nhiệm vụ một cách vô tư và tận tình.
- Điều 21. 1. Tòa án bầu chủ tịch và phó chủ tịch, nhiệm kỳ 3 năm, Chủ tịch và phó chủ tịch có thể được bầu lại.
- Điều 22. 1. Trụ sở của Tòa án là La Hay. Tuy nhiên điều đó không cản trở việc Tòa án có thể họp hay thực hiện chức năng của mình ở các địa điểm khác trong mọi trường hợp mà Tòa án xét thấy chỗ đó là cần thiết.
- Điều 23. 1. Tòa án họp thường kỳ ngoại trừ trong những kỳ nghỉ mà thời hạn và thời điểm các kỳ nghỉ này do Tòa án xác định.
- Điều 24. 1. Nếu vì một lý do nào đặc biệt đó thành viên của Tòa án thấy rằng họ không cần phải tham gia vào việc giải quyết một vụ việc nhất định thì báo cáo điều đó cho Chủ tịch.
- Điều 25. 1. Ngoài những trường hợp đã nêu trong quy chế này, Tòa án họp phiên toàn thể.
- Điều 26. 1. Mức độ cần thiết Tòa án có thể lập ra một hay nhiều ban gồm 3 thẩm phán hay nhiều hơn nữa theo sự suy xét của Tòa án để phân tích các phạm trù nhất định của vụ việc, chẳng hạn, vụ việc về lao động và các vụ việc liên quan đến quá cảnh và liên lạc.
- Điều 27. Quyết định, nghị quyết của một số các ban nêu ở điều 26 và 29 được coi là quyết định, nghị quyết của Tòa án.
- Điều 28. Các ban đã nêu ở điều 26 và 29, với sự đồng ý của các bên, có thể họp và thực hiện nhiệm vụ của mình ở các địa điểm khác ngoài La Hay.
- Điều 29. Nhằm mục đích thúc đẩy việc giải quyết các vụ việc, mỗi năm Tòa án lập ra một ban có thành phần gồm 5 thẩm phán, theo yêu cầu của các bên, ban này có thể xem xét giải quyết vụ việc theo trình tự xét xử sơ bộ. Được chọn thêm 2 thẩm phán để thay những thẩm phán thấy mình không có thể tham gia vào các phiên họp.
- Điều 30. 1. Tòa án vạch ra nội quy quy định nguyên tắc thực hiện chức năng của mình, Tòa án còn quy định các nguyên tắc xét xử.
- Điều 31. 1. Các Thẩm phán có quốc tịch của một trong các bên được quyền tham gia vào các phiên họp về một vụ việc đang được Toà án tiến hành.
- Điều 32. 1. Các ủy viên của Tòa án lĩnh lương cả năm.
- Điều 33. Liên hợp quốc chịu chi phí của Tòa án theo như Đại hội đồng đã quy định.
- Điều 34. 1. Chỉ các quốc gia mới là các bên trong các vụ tranh chấp được Tòa án giải quyết.
- Điều 35. 1. Tòa án giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia là thành viên của quy chế này.
- Điều 36. 1. Tòa án tiến hành xét tất cả các vụ tranh chấp mà các bên đưa ra và tất cả các vấn đề được nêu riêng trong hiến chương Liên hợp quốc hay các điều ước quốc tế hiện hành.
- Điều 37. Trong tất cả các trường hợp khi điều ước quốc tế hiện hành dự kiến chuyển vụ tranh chấp cho một tòa án được Hội quốc liên hay Thường trực pháp viện quốc tế thiết lập thì vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên của quy chế này phải được chuyển đến Tòa án quốc tế.
- Điều 38. 1. Tòa án, với chức năng là giải quyết phù hợp với luật quốc tế các vụ tranh chấp được chuyển đến Tòa án, sẽ áp dụng:
- Điều 39. 1. Ngôn ngữ chính thức của Tòa án là tiếng Pháp và Anh. Nếu các bên thỏa thuận tiến hành giải quyết vụ việc bằng tiếng Pháp thì ra nghị quyết bằng tiếng Pháp. Nếu các bên thỏa thuận tiến hành giải quyết vụ việc bằng tiếng Anh thì ra nghị quyết bằng tiếng Anh.
- Điều 40. 1. Các vụ tranh chấp được đưa đến Tòa án, không phụ thuộc vào các tình tiết, hay là dựa vào các thỏa thuận đặc biệt, hay là dựa vào đơn viết gửi cho thư ký Tòa án. Trong cả 2 trường hợp cần phải nêu rõ đối tượng của sự tranh chấp và các bên tranh chấp.
- Điều 41. 1. Nếu như, theo ý kiến của Tòa án, các tình tiết đòi hỏi, Tòa án có quyền nêu rõ những biện pháp tạm thời cần thiết để đảm bảo quyền của mỗi bên.
- Điều 42. 1. Các bên phát biểu thông qua đại diện của mình.
- Điều 43. 1. Thủ tục xét xử bao gồm 2 phần: thủ tục viết và thủ tục nói.
- Điều 44. 1. Để chuyển tất cả các thông báo cho những người khác trừ các đại diện, luật sư, trạng sư thì Tòa án phải gửi trực tiếp cho chính phủ của quốc gia mà trên lãnh thổ quốc gia đó Tòa án muốn chuyển thông báo.
- Điều 45. Việc nghe vụ án được tiến hành dưới sự chủ trì của Chủ tịch hay nếu Chủ tịch không thể chủ trì được thì Phó Chủ tịch. Nếu như không có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và không có ai có thể chủ trì thì Thẩm phán nhiều tuổi nhất có mặt sẽ chủ trì.
- Điều 46. Việc nghe vụ án ở Tòa án được tiến hành công khai, nếu như không theo một quyết nghị khác của Tòa án hay nếu như các bên yêu cầu không cho phép khán giả được đến dự.
- Điều 47. 1. Mỗi phiên họp xét xử đều ghi biên bản được Thư ký hay Chủ tịch ký.
- Điều 48. Tòa án điều khiển hướng đi của vụ án, xác định hình thức và thời hạn mà trong đó mỗi bên cần phải trình bày hết lý lẽ của mình, và áp dụng mọi biện pháp có liên quan đến vụ việc thu thập chứng cứ.
- Điều 49. Thậm chí trước khi bắt đầu nghe vụ án, Tòa án có thể yêu cầu các đại diện đưa ra văn bản bất kỳ hay một sự giải thích, trong trường hợp từ chối phải lập biên bản.
- Điều 50. Tòa án trong thời gian bất kỳ có thể giao việc tiến hành điều tra hay giám định cho một người bất kỳ, cho đồng sự, cho phòng, ủy ban hay cho một tổ chức nào khác do mình lựa chọn.
- Điều 51. Trong khi nghe vụ án, tất cả các câu hỏi có liên quan đến vụ án được nêu ra cho các nhân chứng và các giám định viên phải theo đúng các điều kiện đã được Tòa án quy định trong Quy chế đã được nhắc tới trong điều 30.
- Điều 52. Sau khi đã thu thập chứng cứ, trong thời hạn đã được ấn định để làm việc đó. Tòa án có thể không nhận tất cả các chứng cứ giấy tờ và lời nói mà một trong các bên muốn đưa ra không có sự thỏa thuận của bên kia.
- Điều 53. 1. Nếu một trong các bên không trình diện trước Tòa án không đưa ra lý lẽ của mình thì bên kia có thể yêu cầu Tòa án giải quyết theo hướng có lợi cho mình.
- Điều 54. 1. Khi các đại diện, các luật sư, trạng sư dưới sự chủ trì của Tòa án, trình bày xong lời giải thích của mình về vụ án, Chủ tịch tuyên bố là đã nghe hết.
- Điều 55. 1. Tất cả các vấn đề được quyết định bằng đại đa số số phiếu của Thẩm phán có mặt.
- Điều 56. 1. Trong phán quyết cần phải đưa vào những ý kiến mà trên cơ sở đó ra phán quyết.
- Điều 57. Nếu trong phán quyết từng phần hay toàn phần không biểu thị được ý kiến nhất trí của các Thẩm phán thì mỗi Thẩm phán có quyền nêu ý kiến riêng của mình.
- Điều 58. Phán quyết được Chủ tịch và Thư ký Tòa án ký. Nó được đọc trong các phiên họp công khai của Tòa án sau khi thông báo chính thức cho các đại diện các bên.
- Điều 59. Phán quyết của Tòa án chỉ có hiệu lực đối với các quốc gia tham gia vào vụ tranh chấp và coi trọng vụ tranh chấp đó.
- Điều 60. Phán quyết đã làm xong thì không kháng cáo trong trường hợp có sự tranh cãi về ý nghĩa hay về phạm vi phán quyết thì Tòa án phải giải thích các vấn đề đó theo yêu cầu của bất kỳ bên nào.
- Điều 61. 1. Yêu cầu phúc thẩm phán quyết có thể đưa ra trên cơ sở đó những tình tiết mới được phát hiện mà về tính chất của nó có ảnh hưởng quyết định đến xuất phát điểm của vụ tranh chấp và những tình tiết đó cả Tòa án, cả bên yêu cầu xem xét lại để không biết, với điều kiện tất yếu là việc không biết đó không phải là hậu quả của sự thiếu thận trọng.
- Điều 62. 1. Nếu như một quốc gia nào đó thấy rằng phán quyết về vụ tranh chấp có thể động chạm đến lợi ích nào đó có tính chất pháp lý của quốc gia đó thì nước đó có thể yêu cầu Tòa án quyết định cho tham gia vào vụ việc đó.
- Điều 63. 1. Trong trường hợp xảy ra các vấn đề phải giải thích bản điều ước mà trong đó, trừ các bên hữu quan của vụ tranh chấp có các quốc gia khác tham gia, thư ký Tòa án phải nhanh chóng báo cho tất cả các quốc gia này.
- Điều 64. Khi không có một quy định nào khác của Tòa án thì mỗi bên phải chịu án phí của riêng mình.
- Điều 65. 1. Tòa án có thể có những kết luận tư vấn về một vấn đề pháp luật bất kỳ nào theo yêu cầu của một cơ quan bất kỳ được chính Hiến chương Liên hợp quốc hay theo đúng bản quy chế này, cho toàn quyền được yêu cầu.
- Điều 66. 1. Thư ký Tòa án nhanh chóng báo tin về đơn có yêu cầu kết luận tư vấn cho tất cả các quốc gia có quyền tham gia vào Tòa án.
- Điều 67. Tòa án đưa ra kết luận tư vấn của mình trong phiên họp công khai đã được báo trước cho Tổng thư ký và các đại diện của các thành viên Liên hợp quốc trực tiếp có liên quan và cho đại diện của các quốc gia và các tổ chức quốc tế khác.
- Điều 68. Trong khi thực hiện các chức năng tư vấn của mình. Tòa án, ngoài những điều đã nêu ra, lấy các phán quyết có liên quan đến các vụ việc tranh chấp trong quy chế này làm chủ đạo, ở mức độ mà Tòa án công nhận là chúng áp dụng được.
- Điều 69. Những sửa đổi quy chế này được đưa vào theo đúng trình tự đã được Hiến chương Liên hợp quốc nêu lên đối với việc sửa đổi quy chế, tuy nhiên, phải tuân theo tất cả những nguyên tắc mà có thể được Đại hội đồng quy định theo đề nghị của Hội đồng bảo an về việc tham gia của các quốc gia không phải là thành viên của Liên hợp quốc nhưng lại là thành viên của quy chế.
- Điều 70. Tòa án có quyền đề nghị những điều sửa đổi quy chế này mà Tòa án xét cần thiết, phải báo cáo bằng văn bản những điều đó cho Tổng thư ký để tiếp tục xem xét phù hợp với các nguyên tắc đã được trình bày ở điều 69.