HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: PL/1982 | Hà Nội, ngày 30 tháng 06 năm 1982 |
TRỪNG TRỊ TỘI ĐẦU CƠ, BUÔN LẬU, LÀM HÀNG GIẢ,KINH DOANH TRÁI PHÉP
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
Để ngăn chặn các hành động vi phạm chính sách quản lý thị trường, góp phần đẩy mạnh sản xuất, ổn định vật giá và bảo đảm đời sống nhân dân;
Căn cứ vào Điều 35 và Điều 100 của Hiến Pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Pháp lệnh này quy định việc trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép.
Nghiêm cấm việc bao che người phạm tội.
Các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân, khi thấy có hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, đều có quyền và nghĩa vụ phát hiện với các cơ quan hoặc nhân viên Nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn và xử lý.
1- Người nào lợi dụng những khó khăn về kinh tế hoặc tạo ra những khó khăn đó, mua vét hàng hoá, lương thực, vật tư, các loại tem, phiếu, vé, giấy tờ có giá trị phân phối hàng hoá, vật tư hoặc cung ứng dịch vụ, nhằm thu lợi bất chính, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng phạm pháp.
2- Phạm tội đầu cơ xăng dầu, thuốc chữa bệnh do Nhà nước thống nhất quản lý hoặc phạm tội trong trường hợp nghiêm trong quy định ở
3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định ở
Điều 3. Tội buôn lậu, tàng trữ hàng cấm.
1- Người nào buôn lậu, tàng trữ vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ, vật tư kỹ thuật hoặc các loại hàng khác mà Nhà nước cấm buôn bán, tàng trữ thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng phạm pháp.
2- Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng quy định ở
3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định ở
Điều 4. Tội buôn lậu hoặc vận cuyển trái phép hàng hoá qua biên giới.
1- Người nào buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng phạm pháp.
2- Phạm tội buôn bán hoặc vận chuyển hàng hoá thuộc loại cấm xuất khẩu, nhập khẩu hoặc phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng quy định ở
3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định ở
Điều 5. Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả.
1- Người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả nhằm thu lợi bất chính, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm và bị phạt tiền từ năm nghìn đồng (5.000đ) đến năm vạn đồng (50.000đ).
2- Phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, hoặc phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng quy định ở
3- Phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả có chất độc hại hoặc các chất khác có thể gây nguy hiểm đến sức khoẻ, tính mạng của người tiêu dùng, hoặc phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định ở
Điều 6. Tội kinh doanh trái phép.
1- Người nào kinh doanh không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung được phép, trốn thuế, không niêm yết giá, nâng giá cao hơn giá niêm yết, không đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, sử dụng trái phép nhãn hiệu hàng hoá hoặc dùng thủ đoạn khác để lừa dối cơ quan Nhà nước và người tiêu dùng thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng phạm pháp.
2- Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng quy định ở
Điều 7. Tội bao che người phạm tội.
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, cố tình cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm các tội ghi trong Pháp lệnh này thì bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Trong trường hợp có hành động đàn áp, trả thù người phát hiện hoặc tố giác người phạm tội thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm.
Nếu vì mục đích thu lợi bất chính mà bao che người phạm tội thì, tuỳ hành vi cụ thể, bị coi là cùng phạm tội và bị xử phạt theo các Điều 2, 3, 4, 5, 6 Pháp lệnh này hoặc bị xử phạt theo Pháp lệnh ngày 20 tháng 5 năm 1981 trừng trị tội hối lộ.
Điều 8. Hình phạt nặng nhất đối với những trường hợp phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng.
Người nào phạm các tội quy định ở các Điều 2, 3, 4, 5, trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định ở
Điều 9. Những trường hợp nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng cần xử nặng.
1- Những trường hợp nghiêm trọng là:
a) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệm hoặc tái phạm;
b) Đầu cơ, tàng trữ, buôn lậu hàng hoá có số lượng hoặc giá trị lớn, hoặc đã thu lợi bất chính lớn;
c) Lợi dụng thiên tai hoặc chiến tranh để phạm tội;
d) Phạm tội có tổ chức;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước hay tổ chức xã hội để phạm tội;
e) Có hành động chống lại cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ;
2- Những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng là:
a) Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đến nền kinh tế quốc dân hoặc sức khoẻ, tính mạng của người khác;
b) Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng đến an ninh, quốc phòng;
c) Phạm tội tập trung nhiều tình tiết nghiêm trọng nói ở khoản 1 của Điều này.
Điều 10. Những trường hợp giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt.
1- Tội phạm chưa bị phát giác mà người phạm tội thành thật thú tội với cơ quan Nhà nước, khai rõ hành động của mình và đồng bọn thì có thể được miễn hình phạt; nếu phạm tội nghiêm trọng thì được giảm nhẹ hình phạt.
2- Trước khi bị xét xử, người phạm tội tự nguyện giao nộp cho Nhà nước đầy đủ hàng hoá, vật tư và phương tiện phạm pháp, thì được giảm nhẹ hình phạt.
Điều 11. Những trường hợp xử lý bằng biện pháp hành chính.
Những vi phạm nhỏ chưa đến mức phải truy tố trước Toà án theo các điều quy định về tội phạm Trong Pháp lệnh này thì bị xử lý bằng biện pháp hành chính theo quy định của Hội đồng bộ trưởng.
Người có công trong việc chống đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép được xét khen thưởng theo chế độ chung của Nhà nước. Ngoài ra, tuỳ theo tính chất của vụ án và công lao đóng góp của mỗi người còn được thưởng một khoản tiền từ 5% đến 10% trị giá hàng hoá tịch thu hoặc tiền phạt, nhưng mức thưởng cao nhất đối với mỗi vụ không quá năm vạn đồng (50.000đ), đối với mỗi người không quá một vạn đồng (10.000đ).
2- Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bị bãi bỏ.
| CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC |
Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép năm 1982 do Hội đồng Nhà nước ban hành
- Số hiệu: PL/1982
- Loại văn bản: Pháp lệnh
- Ngày ban hành: 30/06/1982
- Nơi ban hành: Hội đồng Nhà nước
- Người ký: Trường Chinh
- Ngày công báo: 31/07/1982
- Số công báo: Số 14
- Ngày hiệu lực: 10/07/1982
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định