BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG | ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM |
Số: 03-NQ/TW | Hà Nội ngày 18 tháng 6 năm 1997 |
HỘI NGHỊ LẦN THỨ 3 BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA VIII
VỀ CHIẾN LƯỢC CÁN BỘ THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày công đào tạo, huấn luyện, xây dựng được một đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định phải "Sớm xây dựng chiến lược cán bộ của thời kỹ mới". Trên cơ sở tổng kết công tác cán bộ trong những năm qua, chủ yếu là trong 10 năm đổi mới, chúng ta xác định phương hướng cơ bản, các chính sách và giải pháp lớn xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đến năm 2020, trước mắt là chuẩn bị cho nhiệm kỳ Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
PHẦN THỨ NHẤT: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
Mặt mạnh:
- Được rèn luyện, thử thách trong quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ; cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn; năng đông, sáng tạo, hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước.
- Trình độ, kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội ngày càng được nâng cao.
- Số đông cán bộ giữ được đạo đức, phẩm chất cách mạng, lói sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân.
- Một số cán bộ dao động, giảm sút niềm tin, nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội, hoài nghi đường lối của Đảng; có người do bất mãn cá nhân đi đến phản bội Đảng và lợi ích của nhân dân.
- Một bộ phận cán bộ thoái hóa biến chất về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng phí của công; quan liêu, ức hiếp dân, gia trưởng độc đoán; có tham vọng cá nhân, cục bộ, kèn cựa địa vị, cơ hội, kém ý thức tổ chức kỷ luật, phát ngôn và làm việc tuỳ tiện, gây mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng.
Đáng chú ý là những biểu hiện tiêu cực này đang có chiều hướng phát triển, làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ.
- Nhiều cán bộ lãnh đạo không nghiêm túc tự phê bình và tiếp thu phê bình, tính chiến đấu kém. Có tình trạng nể nang, né tránh, không nói thẳng, nói thật với nhau, bằng mặt mà không bằng lòng.
- Đội ngũ cán bộ tuy đông nhưng không đồng bộ, vẫn còn tình trạng "vừa thừa vừa thiếu". Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới, nhất là về quản lý kinh tế thị trường, quản lý xã hội, luật pháp... Nhiều cán bộ lười học, lười nghiên cứu, một số học lướt chỉ cốt để lấy được bằng cấp.
Nhìn chung đội ngũ cán bộ hiện nay, xét về chất lượng và cơ cấu có nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ngoài những điểm chung nói trên, mỗi loại cán bộ còn có những mặt mạnh, yếu cụ thể:
Cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đoàn thể: có bản lĩnh và kinh nghiệm lãnh đạo chính trị, vận động nhân dân, tích cực tiến hành đổi mới. Nhưng trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo và quản lý còn hạn chế. Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt có biểu hiện chủ quan, thiếu dân chủ.
Cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang: có lập trường chính trị kiên định, có ý thức cảnh giác cao, chịu đựng gian khổ, vượt qua khó khăn bảo vệ Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị và an toàn xã hội. Một bộ phận, chủ yếu là trong lực lượng làm kinh tế, giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ pháp luật lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp để buôn lậu, sách nhiễu, gây hậu quả nghiêm trọng.
Cán bộ khoa học: có tâm huyết, có năng lực sáng tạo, tiếp thu nhanh khoa học công nghệ mới. Nhưng chất lượng chưa cao, năng lực thực hành còn yếu; thiếu nhiều chuyên gia giỏi; tỉ lệ cán bộ khoa học trên số dân còn thấp. Một số cán bộ chưa say mê nghiên cứu khoa học, thiếu hoài bão lớn, chưa đem hết tài trí phục vụ đất nước, ít gắn bó với sản xuât và cơ sở, thiếu tinh thần hợp tác.
Cán bộ quản lý kinh doanh: năng động, thích ứng nhanh với cơ chế mới. Nhưng kinh nghiệm còn ít, năng lực còn hạn chế, tổ chức kinh doanh còn kém hiệu quả, quan hệ với nước ngoài còn nhiều sơ hở, mất cảnh giác. Không ít cán bộ chưa quán triệt đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng, nặng về kinh doanh đơn thuần, một số tham nhũng, thoái hóa, biến chất, xa hoa, lãng phí của công, làm giàu phi pháp.
Ưu điểm:
- Đã bước đầu huy động được các cấp, các ngành cùng các cơ quan có chức năng làm tham mưu trực tiếp xây dựng đội ngũ cán bộ. Việc đánh giá, sử dụng cán bộ dân chủ, tập thể hơn trước. Từng bước tiêu chuẩn hóa cán bộ, kết hợp các độ tuổi, các loại, các thế hệ cán bộ.
- Đã đào tạo và bồi dưỡng hàng vạn cán bộ cả về lý luận chính trị, quân sự, về quan điểm, đường lối của Đảng, về quản lý hành chính, quản lý kinh tế, khoa học, luật pháp, văn hóa, nghệ thuật...
- Đã thực hiện một số chính sách phù hợp với tình hình mới (trong đó có chính sách chăm sóc những người có công). đã ban hành một số quy chế về quản lý cán bộ , quy trình tiến hành lựa chọn, đề bạt, bầu cử, khen thưởng, kỷ luật cán bộ.
Khuyết điểm:
- Việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ nhiều khi còn chủ quan, chưa thật công tâm, chưa hợp lý, thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Bố trí cán bộ trong nhiều trường hợp còn nặng về cơ cấu, lúng túng, bị động khi bố trí cán bộ chủ chốt ở một số ngành và địa phương; hẹp hòi, định kiến, không mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ.
- Những chính sách đối với cán bộ, nhất là chính sách tiền lương, nhà ở, phương tiện đi lại, điều kiện làm việc... còn nhiều bất hợp lý, thiếu công bằng, thực hiện không thống nhất và đồng bộ, chưa tạo được động lực và phát huy tài năng, chưa khuyến khích những cán bộ công tác ở cơ sở, ở những vùng khó khăn, chưa chú ý thỏa đáng những cán bộ về hưu.
- Công tác đào tạo bồi dưỡng chưa gắn với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch sử dụng cán bộ. Chất lượng và hiệu quả đào tạo còn thấp. Nội dung chương trình và phương pháp đào tạo cán bộ chậm đổi mới, chưa gắn với tổng kết thực tiễn của công cuộc đổi mới; buông lỏng giáo dục rèn luyện lập trường giai cấp và đạo đức cách mạng. Hệ thống trường đào tạo chưa hợp lý; việc chiêu sinh, thi tuyển, công nhân tốt nghiệp, quản lý văn bằng, chứng chỉ, học hàm, học vị thiếu chặt chẽ.
- Nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo, quản lý công tác cán bộ và nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được cụ thể hóa. Công tác kiểm tra, quản lý cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ ở nhiều nơi bị buông lỏng. Phần lớn khi có đơn tố giác mới thanh tra. Không kiên quyết xử lý những cán bộ sai phạm. Còn thiếu các quy chế về quản lý cán bộ, luân chuyển cán bộ, nhân dân giám sát, phê bình cán bộ... Hệ thống tổ chức làm công tác cán bộ còn phân tán, chồng chéo, chức năng và trách nhiệm không rõ.
Nguyên nhân của những mặt mạnh và ưu điểm:
- Đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng ta và những thành tựu của công cuộc đổi mới tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ cống hiến và trưởng thành.
- Đảng luôn luôn chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
- Công tác cán bộ có những đổi mới về cơ chế, chính sách, quản lý...
- Đội ngũ cán bộ được kế thừa truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường của Đảng và dân tộc, noi gương Bác Hồ và được sự giúp đỡ của nhân dân.
Nguyên nhân của những yếu kém, khuyết điểm:
- Bước vào thời kỳ mới, các cấp uỷ đảng chưa dự báo được những tình huống mới, chưa hiểu đầyđủ nội dung, yêu cầu mới đối với cán b. Ban Chấp hành Trung ương Đảng chưa có nghị quyết chuyên đề về cán bộ, chưa xây dựng được chiến lược cán bộ. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo chưa chủ động xây dựng quy hoạch cán bộ, không tích cực chuẩn bị người kế nhiệm.
- Cơ quan làm công tác tổ chức cán bộ chậm đổi mới, chưa chú trọng nghiên cứu khoa học; trình độ lý luận và tổng kết thực tiễn, tham mưu đề xuất những vấn đề chiến lược về cán bộ còn hạn chế. Một số cán bộ làm công tác tổ chức chưa gương mẫu về đạo đức, phẩm chất, thiếu khách quan, yếu về năng lực.
- Một số cán bộ không chịu tu dưỡng, rèn luyện, tự phê bình và phê bình, bị chủ nghĩa cá nhân chi phối.
- Cách mạng nước ta chuyển giai đoạn, có nhiều vấn đề mới đặt ra, môi trường kinh tế xã hội rất phức tạp, tổ chức bộ máy thiếu ổn định, công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ lúng túng, bất cập. Các thế lực thù địch tìm mọi cách lung lạc, lôi kéo, mua chuộc, hòng làm biến chất đội ngũ cán bộ của Đảng ta.
4- Một số bài học kinh nghiệm.
- Tiến hành công tác cán bộ phải trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc, nắm vững quan điểm và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng phải thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, dự báo đúng tình hình, bám sát yêu cầu của nhiệm vụ chính trị để có quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ, chuẩn bị cho trước mắt và cho cả một thời kỳ tương đối dài. Phải đề phóng nguy cơ sai lầm về đường lối cán bộ.
- Xây dựng đồng bộ đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu. Phải đổi mới, trẻ hóa cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn và có sự chuẩn bị chu đáo, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa và phát triển, giữ vững đoàn kết nội bộ và ổn định chính trị.
- Có quan điểm và phương pháp đánh giá, sử dụng cán bộ một cách khách quan, khoa học, công tâm. Xử lý tốt các mối quan hệ giữa đức và tài, quyền hạn và trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích, giai cấp và dân tộc, tiêu chuẩn và cơ cấu, năng lực thực tế và bằng cấp, cán bộ đương chức và cán bộ về hưu... phù hợp với yêu cầu của mỗi loại cán bộ. Hết sức coi trọng việc đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ; giáo dục lý tưởng, bản lĩnh chính trị và đạo đức cách mạng, rèn luyện, thử thách, tuyển lựa cán bộ từ trong hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân.
- Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ phải thể chế hóa thành các quy chế, quy trình. Những nhận xét, kết luận về cán bộ nhất thiết phải do cấp uỷ có thẩm quyền quyết định sau khi đã lắng nghe đầy đủ ý kiến của các cơ quan có liên quan, ý kiến đóng góp của nhân dân và sự tự phê bính của cán bộ. Kết hợp đúng đắn chế độ tập thể với trách nhiệm cá nhân, dân chủ với tập trung; không dân chủ hình thức. Huy động mọi cấp, mọi ngành phối hợp với cơ quan tham mưu giúp cấp uỷ làm công tác quản lý cán bộ.
- Đổi mới và xây dựng hệ thống chính sách cán bộ (nhất là chính sách tiền lương, nhà ở) một cách nhất quán, công bằng, có lý có tình, thống nhất trong cả nước và giữa các loại cán bộ, thực sự khuyến khích những cán bộ có tài, trân trọng những cán bộ có công, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Đồng thời xử lý nghiêm minh và kịp thời những người có sai phạm. Cán bộ đúng phải bảo vệ, sai phải đấu tranh, có dư luận phải làm rõ. Tránh tình trạng để dư luận âm ỷ, lan truyền ngờ vực lẫn nhau.
PHẦN THỨ HAI: PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
Trước bối cảnh quốc tế và trong nước với những thuận lợi và khó khăn như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã xác định, việc xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ cần quán triệt các quan điểm, mục tiêu và tiêu chuẩn sau đây:
I. Quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ
1. Phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Công tác cán bộ được đổi mới có vai trò quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu đó. Mặt khác, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là môi trường thực tiễn để rèn luyện, tuyển chọn và đào tạo cán bộ, nâng cao phẩm chất, kiến thức, năng lực của đội ngũ cán bộ.
2. Quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc
Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ. Đồng thời tăng cường số cán bộ xuất thân từ công nhân, trước hết là cán bộ chủ chốt trọng hệ thống chính trị các câp.
Phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng nhân tài, không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, dân tộc, tôn giáo, người ở trong nước hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài; không định kiến với những người có sai lầm trong quá khứ, nay đã hối cải và sửa chữa.
Kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của đội ngũ cán bộ cách mạng để xây dựng các thế hệ cán bộ hiện tại và tương lai.
3- Gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách.
Xây dựng đội ngũ cán bộ và xây dựng tổ chức, đổi mới cơ chế chính sách, phương thức, lề lối làm việc có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Có nhiệm vụ chính trị mới lập tổ chức; có tổ chức mới bố trí cán bộ, không vì cán bộ và lập ra tổ chức. Mỗi cán bộ trong tổ chức phải có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng.
Quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ phải gắn với yêu cầu và nội dung xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, kiện toàn hệ thống chính trị, đổi mới cơ chế chính sách.
4- Thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ đân trí để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ.
Trên cơ sở phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí để xây dựng đội ngũ cán bộ một cách cơ bản, chính quy, có hệ thống; đồng thời thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân để giáo dục, rèn luyện, đào tạo, đánh giá, sàng lọc, tuyển chọn cán bộ.
Không đánh giá, sử dụng cán bộ một cách cảm tính, chủ quan. Mọi phẩm giá và bằng cấp, danh hiệu và chức vụ tài năng và cống hiến đều phải được kiểm nghiệm qua hoạt động thực tiễn. Phong trào cách mạng của quần chúng là trường học lớn của cán bộ. Phải dựa vào dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ.
5- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.
Đảng phải trực tiếp chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cho hệ thống chính trị, trên mọi lĩnh vực. Đảng thực hiện đường lối, chính sách cán bộ thông qua các tổ chức đảng (ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ) và đảng viên trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể nhân dân, thực hiện đúng quy trình, thủ tục, pháp luật của Nhà nước và điều lệ của các đoàn thể và tổ chức xã hội.
Phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp uỷ và các tổ chức đảng; đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp, coi đây là một trong những công việc quan trọng bậc nhất của lãnh đạo.
Những vấn đề về chủ trương, chính sách, đánh giá, bố trí, sử dụng, điều động, đề bạt, khen thưởng, xử lý kỷ luật cán bộ nhất thiết phải do cấp uỷ có thẩm quyền quyết định theo đa số.
Nghiêm túc chấp hành các nghị quyết của cấp uỷ về cán bộ và công tác cán bộ; cá nhân phải chấp hành quyết định của tập thể; tổ chức đảng cấp dưới phải chấp hành quyết định của tổ chức đảng cấp trên.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bảo đảm có đủ nguồn cán bộ để mỗi nhiệm kỳ có thể đổi mới khoảng 30%-40% số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể các cấp, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang. Phấn đấu đến năm 2020 số người có trình độ đại học, cao đẳng trở lên bằng khoảng 4% dân số cả nước.
Trước mắt chuẩn bị tốt nhân sự hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân, đại hội đảng các cấp và Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
III. Tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới
Tiêu chuẩn chung:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Các tiêu chuẩn đó, có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là gốc.
Ngoài các tiêu chuẩn chung nói trên, cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân còn phải:
- Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Gương mẫu về đạo đức, lối sống. Có tác phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập hợp quần chúng, đoàn kết cán bộ.
- Có kiến thức về khoa học lãnh đạo và quản lý. Đã học tập có hệ thống ở các trường của Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân; trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả.
Cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang còn phải:
- Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, sẵn sàng hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, có ý thực tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ gìn bí mật quân sự, bí mật quốc gia.
- Nắm vững và có khả năng vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Nắm được những vấn đề cơ bản về quản lý kinh tế xã hội.
Cán bộ khoa học, chuyên gia còn phải:
- Có tư duy độc lập, sáng tạo, có ý thức hợp tác, say mê trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ.
- Bám sát đời sống xã hội, có khả năng tổng kết thực tiễn.
- Chuyên gia đầu ngành phải có khả năng tập hợp và đào tạo cán bộ khoa học.
Cán bộ quản lý kinh doanh còn phải:
- Hiểu biết sâu sắc các quan điểm kinh tế của Đảng. Có phẩm chất và đạo đức, cần kiệm, liêm chính, không lợi dụng chức quyền để tham ô. lãng phí, xa hoa.
- Có kiến thức về kinh tế thị trường và quản trị doanh nghiệp, hiểu biết khoa học, công nghệ, pháp luật và thông lệ quốc tế.
- Có khả năng tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế - xã hội.
Các ngành, các cấp căn cứ vào những tiêu chuẩn trên đây để xây dựng tiêu chuẩn cụ thể của tất cả các loại cán bộ, công chức cho sát hợp.
PHẦN THỨ BA: MỘT SỐ NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP LỚN
I. Xây dựng quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
1- Quy hoạch cán bộ.
Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ tổ chức; đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức hiện có; dự kiến nhu cầu và khả năng phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức để chủ động có phương hướng đào tạo, bồi dưỡng. Đặc biệt chú trọng tạo được nguồn cán bộ dồi dào, đủ tiêu chuẩn để kịp thời đáp ứng yêu cầu, tập trung vào cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân các cấp, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang, cán bộ khoa học và chuyên gia, cán bộ quản lý kinh doanh.
Mỗi cấp, mỗi ngành phải có kế hoạch tạo nguồn cán bộ, chú trọng:
- Những cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, công chức có thành tích xuất sắc trong công cuộc đổi mới dưới 45 tuổi ở các quận, huyện, tỉnh, thành, các bộ, ban ngành Trung ương và các doanh nghiệp...
- Những công nhân, nông dân, trí thức, cán bộ và chiến sĩ lực lượng vũ trang ưu tú, cán bộ dân tộc thiếu số, cán bộ nữ, con em các gia đình có công với cách mạng có triển vọng, có thành tích, sáng kiến trong lao động, công tác.
- Các sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, các nhà khoa học trẻ tuổi thuộc các lĩnh vực.
Định kỳ kiểm tra, tổng kết và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ.
2. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
- Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với từng loại cán bộ:
Mở rộng diện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị và tổ chức xã hội, các thành phần kinh tế. Đặc biệt chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, tạo nguồn cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở; cán bộ khoa học đầu ngành; cán bộ quản lý kinh doanh các doanh nghiệp lớn.
Phấn đấu chậm nhất từ năm 2005 trở đi, nói chung những cán bộ chủ chốt dưới 45 tuổi từ cấp huyện trở lên ít nhất phải có trình độ đại học về chuyên môn, cao cấp về lý luận chính trị. Đào tạo, bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm, đề bạt; khắc phục tình trạng bầu cử, bổ nhiệm rồi mới đưa đi đào tạo.
Đào tạo lại đội ngũ giảng viện, giáo viên, chú ý bồi dưỡng chính trị, nâng cao giác ngộ giai cấp để phần đông giáo viên trong các trường học có đủ tiêu chuẩn trở thành đảng viên.
- Nội dung đào tạo bồi dưỡng cán bộ:
Lấy tiêu chuẩn cán bộ làm căn cứ xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng thống nhất trong hệ thống các trường. Nội dung đào tạo phải thiết thực, phù hợp với yêu cầu đối với từng loại cán bộ; chú trọng cả phẩm chất đạo đức và kiến thức, cả lý luận và thực tiễn; bồi dưỡng kiến thức cơ bản và hướng dẫn kỹ năng thực hành.
Chú trọng bồi dưỡng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chi Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các kiến thực về lịch sử, địa lý, văn hóa...
Bồi dưỡng kiến thức về quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, quản lý kinh tế, khoa học, công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ, phong cách lãnh đạo...
- Phương thức đào tạo bồi dưỡng:
Kết hợp đào tạo chính quy với các hình thức khác cho từng loại cán bộ.
Mở rộng đào tạo trong nước, đồng thời chú trọng đào tạo ở nước ngoài. Nhà nước dành ngân sách thích đáng để cử cán bộ giỏi đi nghiên cứu và học tập ở các nước phát triển. Khuyến khích, tạo thuận lợi cho các tổ chức, tập thể và cá nhân trong và ngoài nước tài trợ, đưa người đi học ở nước ngoài.
Kết hợp việc đào tạo tại các trường lớp với việc rèn luyện qua thực tiễn công tác, trong lao động sản xuất, trong phong trào quần chúng.
Có chế độ khuyến khích và bắt buộc đối với việc tự học, tự nghiên cứu. Định kỳ kiểm tra kiến thức và trình độ nghiệp vụ đối với từng loại cán bộ.
Có quy chế kiểm soát việc sử dụng cán bộ sau đào tạo, bảo đảm làn đúng ngành nghề và chấp hành sự phân công.
- Kiện toàn hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ:
Nghiên cứu sắp xếp hợp lý hơn hệ thống tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể từ trung ương đến địa phương theo hướng tập trung, thống nhất, có chỉ đạo chặt chẽ.
Các trường đào tạo, bồi dưỡng ở trung ương (trường Đảng, Nhà nước và các đoàn thể) cần được sắp xếp lại, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất về quan điểm chính trị, tư tưởng; có sự phân công hợp lý để không chồng chéo, trùng lắp.
Các trường đào tạo, bồi dưỡng ở địa phương cần được củng cố, tăng cường để đảm nhiệm tốt việc đào tạo, bồi dưỡng các loại cán bộ theo phân cấp.
Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, cải tiến việc biên soạn giáo trình, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên.
II. Xây dựng các quy chế công tác cán bộ
1. Về đánh giá cán bộ.
Việc đánh giá cán bộ phải làm hàng năm, trước khi kết thúc nhiệm kỳ, hoặc chuyển công tác, căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ, hiệu quả công việc thực tế, có tính đến môi trường, điều kiện công tác, mức độ tín nhiệm của nhân dân.
Trách nhiệm đánh giá cán bộ thuộc về cấp uỷ, tổ chức đảng nơi cán bộ sinh hoạt, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của cán bộ và bản thân cán bộ tự đánh giá. Việc đánh giá cán bộ phải trên cơ sở thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình; theo nguyên tắc tập thể, dân chủ, công khai, kết luận theo đa số.
Cán bộ được thông báo ý kiến nhận xét của cơ quan có thẩm quyền về bản thân mình, được trình bày ý kiến, có quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp trên, nhưng phải chấp hành ý kiến kết luận của cơ quan có thẩm quyền.
2- Về tuyển chọn cán bộ.
Thực hiện chế độ dân chủ, công khai trong việc tuyển chọn cán bộ, công chức, bảo đảm tuyển chọn đúng những người có đủ tiêu chuẩn theo từng chức danh. Xây dựng và thực hiện các quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm một cách chặt chẽ.
Các tổ chức cơ quan có nhu cầu tuyển chọn cán bộ, công chức công bố công khai nhu cầu, đối tượng, tiêu chuẩn cán bộ cần tuyển. Kết quả sát hạch, thi tuyển là một căn cứ chủ yếu đề ra quyết định tuyển dụng cán bộ.
Lập hội đồng thi tuyển quốc gia, các hội đồng thi tuyển của ngành, địa phương. Quy định nhiệm vụ, chức năng, quy chế làm việc của các hội đồng thi tuyển, bảo đảm việc thi tuyển tiến hành một cách chặt chẽ, khách quan và công bằng.
3- Về bầu cử.
Việc bầu cử phải thựuc hiện đúng pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Đảng, đoàn thể. Các cán bộ do tổ chức đảng giới thiệu tham gia vào các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể phải được tập thể cấp uỷ thảo luận và nhất trí giới thiệu theo đúng thể lệ, quy chế, quy trình bầu cử.
Người được bầu vào các chức vụ cấp trưởng phải đề xuất được đề án, chương trình công tác trong nhiệm kỳ, cam kết hoàn thành nhiệm vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức.
Cán bộ đứng đầu từ cấp huyện, quận trở lên không giữ một chức vụ quá hai nhiệm kỳ ở cùng một đơn vị, địa phương.
4- Về bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ.
Thực hiện chế độ bổ nhiệm có thời hạn. Hết thời hạn giữ chức vụ, cấp có thẩm quyền căn cứ vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ và các yêu cầu công tác để xem xét quyết định có tiếp tục bổ nhiệm cán bộ giữ chức vụ đó nữa hay không.
Trong thời hạn đảm nhiệm chức vụ, người nào vì việc công, lý do sức khoẻ, hoàn cảnh cá nhân được từ chức, miễn chức; người không hoàn thành nhiệm vụ, có sai phạm, uy tín giảm sút thì tuỳ theo mức độ mà bị miễn chức, hoặc cách chức kịp thời.
Cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị có trách nhiệm cùng với tập thể lãnh đạo đào tạo, bồi dưỡng người kế nhiệm.
Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ phải thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Đảng, đoàn thể.
5- Về luân chuyển cán bộ.
Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý giữa các vùng, các ngành, các cấp nhằm sử dụng có hiệu quả và tạo nên sự đồng đều trong đội ngũ cán bộ; bồi dưỡng toàn diện cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn; khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ trong từng ngành, từng địa phương, từng tổ chức.
Căn cứ vào đặc điểm từng vùng, từng ngành, từng cấp, nhu cầu công tác và năng lực, sở trường cán bộ, cấp uỷ đảng lập quy hoạch, kế hoạch luân chuyển cán bộ theo một quy trình chặt chẽ và có chế độ, chính sách thích hợp. Mọi cán bộ, đảng viên phải phục tùng tuyệt đối quyết định điều động, luân chuyển của Đảng và Nhà nước.
6. Về chế độ học tập.
Học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ, đảng viên. Thực hiện chế độ học tập bắt buộc nhằm nâng cao trình độ mọi mặt, bảo đảm sự thống nhất về chính trị và tư tưởng trong toàn đội ngũ cán bộ.
Mọi cán bộ công chức phải có kế hoạch thường xuyên học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn và năng lực hoạt động thực tiễn. Bồi dưỡng đạo đức cách mạng, trước hết là những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tinh thần và kết quả học tập lý luận chính trị là một tiêu chuẩn để để xem xét đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.
Các cấp uỷ đảng, các ban cán sự đảng, đảng đoàn cán bộ, ngành, đoàn thể có trách nhiệm tổ chức, quản lý và kiểm tra chế độ học tập. Có chế độ chính sách, kinh phí, tạo điều kiện thuận lợi để công tác giáo dục lý luận, chính trị đạt chất lượng và hiệu quả cao.
7. Về việc nhân dân tham gia xây dựng và giám sát cán bộ.
Có cơ chế để nhân dân phát hiện, tiến cử những người có đức, có tài cho các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đoàn thể; lựa chọn, bầu cử những người lãnh đạo trực tiếp của mình.
Nhân dân giám sát các công việc và phẩm chất của cán bộ, trước hết là những cán bộ có quan hệ trực tiếp với mình; biểu dương cán bộ tốt, phát hiện, đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng... Bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại của nhân dân đối với cán bộ theo pháp luật.
Có chế độ quy định cán bộ tự phê bình, lắng nghe và tiếp thu những ý kiến của dân, sửa chữa những khuyết điểm mà dân nêu ra.
8- Về chế độ kiểm tra.
Cấp uỷ và tổ chức đảng có trách nhiệm xây dựng chế độ kiểm tra cán bộ và công tác cán bộ.
Kịp thời nêu gương cán bộ tốt, giúp đỡ cán bộ gặp khó khăn, ngăn chặn những biểu hiện lệch lạc, cơ hội, thoái hóa, biến chất.
Kịp thời kiểm tra, kết luận các vụ việc có liên quan đến cán bộ để đánh giá chính xác cán bộ.
Phát hiện và uốn nắn những cơ sở, thiếu sót trong công tác cán bộ.
9- Về bảo vệ chính trị nội bộ.
Xây dựng quy chế bảo vệ chính trị nội bộ, nhằm:
- Bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ cương lĩnh và đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
- Bảo vệ sự trong sạch chính trị nội bộ, trước hết là cán bộ cấp chiến lược và cán bộ lãnh đạo trong hệ thống chính trị, phát hiện và ngăn chặt kịp thời các phần tử chống đối và cơ hội về chính trị.
- Thẩm tra kết luận về các cán bộ có vấn đề về lịch sử chính trị hoặc có quan hệ chính thức phức tạp.
- Phát hiện và xử lý kịp thời các tổ chức chống đối ngay từ khi chúng nhen nhóm hoạt động.
- Bảo vệ bí mật của Đảng và Nhà nước.
10- Về phân công, phân cấp quản lý cán bộ
Xác định trách nhiệm, quyền hạn của các cấp quản lý cán bộ; quyền hạn phải đi liền với trách nhiệm.
Bộ Chính trị ban hành quy chế quản lý cán bộ, quy định về phân cấp quản lý cán bộ đối với các cấp uỷ, các tổ chức đảng; trách nhiệm của cơ quan tham mưu về quản lý cán bộ.
Cấp uỷ, cấp uỷ viên và thủ trưởng quản lý cán bộ phải chịu trách nhiệm trước cấp uỷ và thủ trưởng cấp trên về cán bộ thuộc quyền quản lý của mình.
Chi bộ, đảng bộ có trách nhiệm quản lý cán bộ là đảng viên thuộc chi bộ, đảng bộ mình (kể cả đảng viên là cán bộ cấp cao), nhất là về lập trường quan điểm, ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành chính sách và pháp luật, phẩm chất đạo đức và quan hệ với quần chúng.
Các ban tổ chức, tư tưởng văn hóa, kiểm tra, bảo vệ chính trị nội bộ, dân vận cùng các ban khác của Đảng có trách nhiệm giúp đỡ cấp uỷ, tổ chức đảng và thủ trưởng cơ quan Nhà nước làm tốt công tác cán bộ và quản lý cán bộ.
Căn cứ vào những quan điểm, chủ trương về một số quy chế công tác cán bộ trên đây, các ngành, các cấp nghiên cứu xây dựng các quy chế cụ thể của tất cả các loại cán bộ, công chức cho sát hợp.
III. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ
1- Chính sách đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
Đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng những người ưu tú trở thành cán bộ chủ chốt. Chú ý con em gia đình cách mạng, những người có công với nước, công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang, cán bộ nữ, con em các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng. Có chính sách học bổng và miễn giảm học phí cho con em các gia đình có công với cách mạng, gia đình liệt sĩ, thương binh, con các gia đình nghèo vượt khó, cho học sinh giỏi, đạo đức tốt, sinh viên các ngành sư phạm. Bồi dưỡng tài năng ngay từ các trường phổ thông, đại học và trung học chuyên nghiệp. Dành kinh phí để cử cán bộ ưu tú và sinh viên xuất sắc đi đào tạo, tham quan, bồi dưỡng ở nước ngoài. Tổ chức tốt trường bổ túc văn hóa, dự bị đại học, trường dân tộc nội trú.
Nguồn đầu tư để phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ bao gồm từ ngân sách Nhà nước các cấp, kinh phí của các tổ chức đảng, đoàn thể, của doanh nghiệp, tài trợ của các tổ chức quốc tế và các nước.
2- Chính sách sử dụng và quản lý cán bộ
Việc bố trí và sử dụng cán bộ phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn phù hợp với sở trường. Đề bạt cán bộ phải đúng lúc, đúng người, đúng việc. Có chính sách đoàn kết tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng những người có đức, có tài trong Đảng và ngoài Đảng, người ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Phát hiện, lựa chọn và giới thiệu những người đủ tiêu chuẩn trong các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế tham gia các tổ chức chính trị, xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để họ đóng góp vào các công việc chung của đất nước.
Có chế độ quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ. Các cấp uỷ, thủ trưởng các cơ quan phải nắm chắc từng cán bộ, cả về đức, tài và tình trạng sức khỏe.
Trên cơ sở đó có kế hoạch sử dụng, đề bạt, giúp đỡ, khen thưởng đúng mức những cán bộ có thành tích, xử lý kỷ luật kịp thời và nghiêm minh những cán bộ vi phạm Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước.
3- Chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần.
Tinh giản biên chế, nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả lao động, chống tham nhũng, lãng phí, mở rộng bảo hiểm xã hội, tăng tỉ lệ động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách Nhà nước, đổi mới cơ bản chính sách bảo đảm lợi ích vật chất cho từng loại cán bộ, trước hết là chế độ tiền lương, nhà ở và phương tiện đi lại. Tiền lương phải thật sự trở thành bộ phận cơ bản trong thu nhập của cán bộ, bảo đảm tái sản xuất mở rộng sức lao động.
Thực hiện tiếp việc tiền tệ hóa tiền lương.
Tiếp tục có các hình thức thích hợp để tôn vinh những người có công với nước, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người có tài, có đóng góp lớn cho sự nghiệp đổi mới. Biểu dương, khen thưởng kịp thời những người có thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất, trong phát minh sáng chế khoa học và công nghệ, trong sáng tạo văn hóa nghệ thuật, trong quản lý và công tác. Nghiên cứu đổi mới chính sách tặng thưởng huân chương.
Đi đôi với khuyến khích lợi ích vật chất, chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng là động lực lớn nhất để thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của từng cán bộ.
IV. Đổi mới và chỉnh đốn tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ phải tiến hành đồng thời với việc đổi mới và củng cố tổ chức Đảng, bộ máy Nhà nước, đoàn thể nhân dân, các đơn vị sản xuất kinh doanh, sự nghiệp, công tác; đổi mới cơ chế chính sách, phương thức, lề lối làm việc. Trong đó chú trọng đổi mới, chỉnh đốn các tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ.
Các cấp uỷ, tổ chức đảng và đích thân cán bộ đứng đầu phải chăm lo xây dựng, đổi mới và chức và đội ngũ cán bộ làm công tác cán bộ. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ công tác của các cơ quanlàm công tác cán bộ. Khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán, không rõ trách nhiệm, không nắm chắc cán bộ.
Nâng cao phẩm chất, trình độ kiến thức và năng lực của đội ngũ làm công tác cán bộ . có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn những người công tâm, trung thực, trong sáng, có kinh nghiệm làm công tác cán bộ.
Đổi mới phong cách và phương pháp làm công tác cán bộ. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, chú trọng tổng kết thực tiễn, từng bước xây dựng khoa học về công tác tổ chức cán bộ. Trang bị các phương tiện làm việc hiện đại cho công tác tổ chức cán bộ.
PHẦN THỨ TƯ: NHIỆM VỤ CÔNG TÁC CÁN BỘ TỪ NAY ĐẾN ĐẠI HỘI IX
Nhiệm vụ của công tác cán bộ từ nay đến Đại hội IX là:
Tiếp tục đổi mới cán bộ và công tác cán bộ, rà soát, sắp xếp, sử dụng tốt đội ngũ cán bộ hiện có; khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, sớm hình thành đội ngũ cán bộ kế cận có phẩm chất và năng lực; chuẩn bị tốt nhân sự hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân, đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội toàn quốc làn thứ IX của Đảng.
Những nhiệm vụ chủ yếu là:
1- Rà soát, sắp xếp, bổ sung, sử dụng tốt đội ngũ cán bộ, tích cực chuẩn bị nhân sự Đại hội Đảng các cấp và kiện toàn cơ quan Nhà nước
- Đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ, trên cơ sở đó điều chỉnh, sắp xếp hợp lý đội ngũ cán bộ hiện có.
- Phát hiện những cán bộ có đủ tiêu chuẩn, đảm đương tốt nhiệm vụ, có triển vọng phát triển lâu dài để bố trí vào những cương vị trọng yếu. Điều chỉnh, đề bạt, giao nhiệm vụ theo định hướng chuẩn bị nhân sự cho đại hội các cấp và Đại hội IX, cho việc kiện toàn cơ quan nhà nước và đoàn thể nhân dân các nhiệm kỳ tới. Dùng nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ và rèn luyện trong thực tế công tác phù hợp với từng loại cán bộ.
- Đưa ra khỏi cơ quan lãnh đạo, quản lý những người có những việc làm vi phạm nghiêm trọng đường lối của Đảng và pháp luật Nhà nước, thoái hóa về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, gây mất đoàn kết nội bộ. Đối với những cán bộ kiến thức, năng lực yếu phải đưa đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, trường hợp cần thiết thì điều chỉnh lại công tác cho thích hợp.
- Mở một số lớp đào tạo đặc biệt chuẩn bị cán bộ cho nhiệm kỳ Đại hội IX. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, lịch sử và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những kiến thực mới của thời đại. Xây dựng niềm tin và ý chí kiên định lý tưởng cách mạng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Có kế hoạch tập trung đào tạo bồi dưỡng cán bộ xã, phường về văn hóa, chính trị, pháp luật, quản lý kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng...
2- Xây dựng và ban hành một số quy chế về công tác cán bộ.
- Trên cơ sở tiêu chuẩn chung, xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh cán bộ trong thời kỳ mới làm cơ sở cho việc đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ... cán bộ.
- Xây dựng các quy chế đã được xác định tại phần thứ ba mục II trong chiến lược cán bộ.
3- Đổi mới chính sách tiền lương, nhà ở.
- Tập trung nghiên cứu, tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, nhà ở, bảo đảm công bằng, thống nhất, theo nguyên tắc phân phối theo lao động.
Sớm quy định để thực hiện thống nhất về chế độ đối với cán bộ chuyển đổi công tác, thôi chức vụ khi về hưu; giải quyết một số điểm quá bất hợp lý về lương và phụ cấp.
- Ban hành chính sách, chế độ khuyến khích đối với cán bộ làm việc ở những ngành và những vùng cần phải ưu tiên, những cán bộ, chuyên gia giỏi, làm việc có hiệu quả, có cống hiến thiết thực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những cán bộ, chuyên gia có nghiệp vụ chuyên sâu, có tay nghề cao và đóng góp lớn trong công việc có thể được hưởng chế độ cao hơn cán bộ lãnh đạo, quản lý cùng cấp.
- Thực hiện chính sách điều tiết đối với người có thu nhập cao, bảo đảm công bằng xã hội.
Có chính sách phụ cấp tương xứng với trách nhiệm đối với cán bộ xã, phường.
Bổ sung chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khuyến khích cán bộ miền xuôi đến công tác ở miền núi, biên giới, hải đảo.
Có chế độ chăm sóc cán bộ có công với cách mạng (đương chức và nghỉ hưu) trước hết là cán bộ hoạt động trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, cán bộ từng hoạt động ở các chiến trường gian khổ.
4- Thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình.
Xây dựng chế độ tự phê bình và phê bính ở các cấp, trước hết là trong cán bộ chủ chốt; lấy tự phê bình làm chính, chống cách làm hình thức chiếu lệ.
Cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu tự phê bình và phê bình, chống thái độ nể nang, né tránh, không kiên quyết bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai. Có hình thức tổ chức thích hợp để quần chúng nhân dân tại cơ quan, đơn vị và nơi ở tham gia phê bình cán bộ. Nghiêm cấm mọi hiện tượng trấn áp, trù dập người thẳng thắn đấu tranh phê bình cũng như lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân, vu cáo, gây rối nội bộ.
5- Đẩy mạnh đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng.
Đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, buôn lậu và các hiện tượng tiêu cực khác, tập trung vào các hành vi: tham ô, chiếm đoạt, làm thất thoát tài sản Nhà nước, nhận hối lộ và đòi hối lộ.
Cần làm tốt những việc sau đây:
- Xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy định của Đảng và Nhà nước về chống tham nhũng, buôn lậu, quan liêu, lãng phí và các tệ nạn khác, quy định những điều cấm làm đối với cán bộ, công chức.
- Xây dựng quy chế thực hiện công khai và dân chủ việc xét duyệt các chương trình kinh tế - xã hội, dự án đầu tư, phân bổ ngân sách, kinh phí, cấp giấy phép... nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực. tăng cường kiểm kê, kiểm soát, kiểm tra việc chi tiêu ngân sách Nhà nước, tài sản công, tài chính đảng, đoàn thể, các loại quỹ do dân đóng góp ở tất cả các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở.
- Xử lý kịp thời, nghiêm minh theo pháp luật những cán bộ, công chức tham nhũng, buôn lậu, lãng phí và những người bao che, tiếp tay cho các hành vi đó.
- Các đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải gương mẫu chấp hành các quy định của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước và phải chịu trách nhiệm về tệ tham nhũng, buôn lậu, lãng phí ở cơ quan, đơn vị mình. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và lãnh đạo các cơ quan thông tin đại chúng tham gia công tác chống tham nhũng, buôn lậu, lãng phí; kết hợp tốt các biện pháp kinh tế, giáo dục, hành chính và pháp luật...
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, đấu tranh chống tệ quan liêu, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Bảo đảm quyền giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và bộ máy Nhà nước.
6. Xúc tiến việc xây dựng và thực hiện việc quy hoạch kế hoạch cán bộ. Căn cứ vào chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các đồng chí Uỷ biên Trung ương, các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các ban, ngành Trung ương, ban cán sự Đảng, Đảng đoàn các cơ quan Nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân xúc tiến việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch cán bộ thuộc phạm vi phụ trách.
Hàng năm có kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch; kịp thời bổ sung và hoàn chỉnh.
Có chiến lược cán bộ đúng đắn, xây dựng được đội ngũ cán bộ có đủ đức, tài là điều kiện quyết định để chuẩn bị cho Đảng và dân tộc ta đi vào thế kỷ XXI, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giành những thắng lợi to lớn hơn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
| TM. BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG |
Nghị quyết 03-NQ/TW năm 1997 về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- Số hiệu: 03-NQ/TW
- Loại văn bản: Nghị quyết
- Ngày ban hành: 18/06/1997
- Nơi ban hành: Ban Chấp hành Trung ương
- Người ký: Đỗ Mười
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 18/06/1997
- Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực