Hệ thống pháp luật

BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 304-NĐ

Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 1957

NGHỊ ĐỊNH

BAN HÀNH THỂ LỆ QUẢN LÝ ĐƯỜNG NGANG

BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN

Để bảo đảm giao thông an toàn ở những đường ngang;
Căn cứ đề nghị của ông Chủ nhiệm Tổng cục Đường sắt, và ông Giám đốc Nha Giao thông;

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. – Nay ban hành thể lệ quản lý đường ngang.

Điều 2. – Đường ngang là những nơi mà đường sắt và đường bộ hay một đường sắt khác đi vượt qua nhau cùng một cao độ, hoặc ít đi học chung một tuyến trên một cầu chung, đường ngang ấy phải có những thiết bị sau đây:

- Trong lòng đường sắt có ray hố bánh bắt song hành với ray chính.

- Hai bên ngoài ray chính và giữa hai ray hố bánh có rải đá hoặc lát ván ngang bằng với mặt ray.

Điều 3. – Ở những đường ngang thường xe có động cơ qua lại phải có biển báo trước đặt ở trên đường sắt và đường bộ theo như đã quy định trong quy trình quản lý kỹ thuật của Đường sắt.

Điều 4. – Tuyệt đối cấm các loại xe cộ đi ngang qua đường sắt ở những nơi không có thiết bị như đã quy định ở điều 2.

Điều 5. – Muốn lập một đường ngang, phải có nghị định của ông Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện cho phép đề nghị của ông Chủ nhiệm Tổng cục Đường sắt và ông Giám đốc Nha Giao thông.

Điều 6. – Các đường ngang chia làm hai loại:

- Loại A gồm những đường ngang không cần phải có những thể lệ đặc biệt để đảm bảo an ninh qua lại.

- Loại B gồm những đường ngang không cần phải có những thể lệ đặc biệt để đảm bảo an ninh qua lại.

Những quy cách về thiết bị và quy tắc phân loại đường ngang do ông Chủ nhiệm Tổng cục, Đường sắt đề nghị được ông Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện duyệt để thi hành.

Điều 7. – Ở những đường ngang loại A, không bố trí người gác; Những người sử dụng đường ngang phải chấp hành đúng luật lệ đi đường hiện hành, nếu để xảy ra tai nạn, người sử dụng đường ngang hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Điều 8. – a) Ở những đường ngang loại B, có bố trí người gác cả ngày lẫn đêm.

b) Những thiết bị để bảo đảm an ninh gồm có:

- Về đường bộ, ở hai bên đường ngang có thiết bị chặn đường, đặt ngang đường bộ và có biển tín hiệu mầu đỏ đặt giữa đường bộ bắt xe cộ dừng lại, ban đêm có thắp đèn tín hiệu màu đỏ thay cho cột tín hiệu màu đỏ.

- Về đường sắt, ở hai bên đường ngang có cột tín hiệu màu đỏ hoặc biển tín hiệu màu đỏ bắt xe lửa đứng lại, ban đêm có thắp đèn tín hiệu màu đỏ thay cho cột tín hiệu màu đỏ.

c) Thể lệ áp dụng để đảm bảo an ninh như sau:

- Khi để cho người và xe cộ đi qua đường ngang, tín hiệu đường sắt phải có tác dụng bắt xe lửa đứng lại ở ngoài đường ngang.

- Khi để cho xe lửa đi qua đường ngang, thiết bị chặn đường và tín hiệu đường bộ phải có tác dụng bắt xe cộ đứng lại ở ngoài thiết bị chặn đường.

- Tuyệt đối không được để tín hiệu đường bộ và tín hiệu đường sắt cùng một lúc có tác dụng cho hai loại xe cùng qua đường ngang.

Điều 9. – Tuyệt đối cấm nhân dân và những người sử dụng đường bộ làm cản trở công việc của người gác đường ngang, tụ họp hoặc dừng lại trong phạm vi đường ngang và không được tự động sử dụng những thiết bị và tín hiệu đường ngang.

Điều 10. – Trên các cầu chung đã được quy định là đường ngang thì những đàn súc vật, xe cút kít, xe xích lô, xe ba gác, xe bò, xe ngựa, xe ô tô chỉ có thể mỗi lần đi theo một chiều theo sự điều khiển của người gác cầu, trừ trường hợp có thể lệ riêng ấn định trong nghị định thành lập cầu chung. Những xe cộ mà trọng lượng tổng cộng (trọng lượng xe không và trọng tải) to hơn trọng lượng được phép qua cầu, trừ trường hợp có giấy phép do ông Chủ nhiệm Tổng cục Đường sắt cấp.

Điều 11. – Nhân dân sử dụng cầu chung đã được quy định là đường ngang (những người bộ hành, lái xe, người dắt súc vật) phải tuân theo hiệu lệnh của người gác cầu.

Điều 12. – Đối với các cầu chung có nhịp cầu quay để cho tàu, ca-nô, thuyền đi lại trên sông được dễ dàng, việc qua lại trên cầu bắt buộc phải tuân theo những thệ lệ sau đây:

a) Khi nhịp cầu quay chưa trở lại và chưa được ổn định ở vị trí bảo đảm giao thông trên cầu, thiết bị chặn đường ở hai đầu cầu và tín hiệu đường bộ, đường sắt phải có tác dụng bắt buộc dùng xe lửa, các xe khác và nhân dân sử dụng đường bộ phải đứng lại ở ngoài phạm vi cầu chung.

b) Việc mở nhịp cầu quay cho giao thông đường thủy chỉ có thể làm vào những giờ đã ấn định trong một quy định của Tổng cục Đường sắt, niêm yết hai bên đầu cầu.

- Trong bất cứ trường hợp nào, giao thông đường sắt trên cầu phải được lập lại 20 phút trước giờ xe lửa qua, theo bản giờ tàu hiện hành.

- Những tàu thủy, ca-nô và thuyền muốn xin mở dịp cầu quay phải bỏ neo để đứng lại cách cầu 100mét kéo còi hoặc ra hiệu xin mở cầu và chỉ được tiến lên để qua cầu khi người phụ trách mở cầu ra hiệu lệnh cho qua cầu.

- Những hoa tiêu tàu thủy, ca-nô phải tuyệt đối tuân theo hiệu lệnh của người phụ trách mở cầu.

Điều 13. – Đối với những đường ngang loại B, những biện pháp chi tiết để thi hành thể lệ an ninh ấn định trong nghị định này hay trong nghị định thành lập đường ngang, phải do ông Chủ nhiệm Tổng cục Đường sắt quy định được ông Bộ trưởng Bộ Giao thông và Bưu điện thông qua. Quy định này phải được niêm yết ở hai đầu cầu và ở đường ngang.

Điều 14. – Tùy theo trường hợp nặng nhẹ, người vi phạm sẽ bị:

- Phê bình, cảnh cáo

- Bồi thường thiệt hại nếu đã gây thiệt hại cho nhân dân hoặc cho Nhà nước

Nếu vi phạm gây ra tai nạn, làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, tính mệnh và tài sản của nhân dân, can phạm bị truy tố trước tòa án và trừng trị theo hình luật chung.

Điều 15. – Các ông Chánh văn phòng Bộ Giao thông và Bưu điện, ông Chủ nhiệm Tổng cục đường sắt, ông Giám đốc Nha Giao thông, ông Giám đốc Cục Vận tải đường thủy chiếu nghị định thi hành.

KT. BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VÀ BƯU ĐIỆN
THỨ TRƯỞNG





Nguyễn Hữu Mai

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Nghị định 304-NĐ năm 1957 về thể lệ quản lý đường ngang do Bộ trưởng Bộ Giao Thông và Bưu Điện ban hành.

  • Số hiệu: 304-NĐ
  • Loại văn bản: Nghị định
  • Ngày ban hành: 02/10/1957
  • Nơi ban hành: Bộ Giao thông và Bưu điện
  • Người ký: Nguyễn Hữu Mai
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 42
  • Ngày hiệu lực: 17/10/1957
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản