HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 175-CP | Hà Nội, ngày 11 tháng 12 năm 1964 |
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Để tăng cường việc quản lý vũ khí, đề phòng tai nạn do việc sử dụng vũ khí có thể gây ra, đồng thời ngăn ngừa những phần tử xấu sử dụng vũ khí để hoạt động phá hoại;
Theo đề nghị của các ông Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và ông Chủ nhiệm Uỷ ban Thể dục thể thao;
Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong Hội nghị Thường vụ của Hội đồng Chính phủ ngày 18 tháng 8 năm 1964.
NGHỊ ĐỊNH :
a- Vũ khí quân dụng: các loại súng ngắn, súng trường, súng liên thanh các cỡ, các loại súng lớn, các loại vũ khí tự động, các loại đạn dùng cho các loại vũ khí kể trên và các thứ bom, mìn, lựu đạn, kíp mìn, thuốc nổ;
b- Vũ khí thể thao quốc phòng: Súng trường tự chọn cỡ nhỏ, cỡ lớn, các loại súng trường thể thao phổ thông, súng trường bộ binh nòng dài dùng trong luyện tập và thi đấu thể thao, súng ngắn tự chọn cỡ nhỏ, cỡ lớn, súng ngắn thể thao các cỡ 5 ly, 6 ly, 9 ly và các loại đạn dùng cho các loại súng kể trên.
Các loại vũ khí khác như: súng săn, súng kíp, súng hoả mai, dao găm, mã tấu, giáo mác, thuốc nổ và kíp mìn dùng trong sản xuất công nghiệp đều không thuộc phạm vi quản lý theo quy định trong Nghị định này.
Cá nhân không được quyền có vũ khí riêng. Bất cứ ai có vũ khí riêng, không kể do nguồn gốc nào mà có, đều phải kê khai và nộp cho cơ quan Công an hoặc cơ quan quân sự địa phương từ cấp huyện trở lên. Tuỳ theo nguồn gốc, phẩm chất của từng vũ khí, người nộp vũ khí có thể được xét bồi hoàn một số tiền thích đáng theo quy định của Bộ Công an và Bộ Tài chính.
Không người nào được tự tiện mang các loại vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao quốc phòng vào nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Những đội thi đấu thể thao, khi mang vũ khí thể thao quốc phòng ra, vào cửa khẩu nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, phải có giấy phép do Bộ Công an cấp.
Cán bộ, nhân viên Nhà nước khi đi công tác, cần mang theo vũ khí để tự vệ phải được thủ trưởng cơ quan, đơn vị mình cấp giấy chứng nhận được mang vũ khí, kèm theo giấy phép sử dụng vũ khí do cơ quan Công an cấp cho cơ quan, đơn vị ấy.
Người được sử dụng vũ khí không được cho người khác mượn, không được để vũ khí thất lạc. Khi mất vũ khí phải báo cáo ngay với cơ quan, đơn vị mình và với cơ quan đã cấp giấy phép sử dụng vũ khí đó; gặp trường hợp đi công tác dọc đường mà bị mất vũ khí thì phải báo cáo ngay với cơ quan Công an nơi gần nhất.
a- Cán bộ, chiến sĩ cảnh sát nhân dân, đội tuần tra của Công an nhân dân vũ trang, đội tuần tra của bộ đội chủ lực bộ đội điạ phương;
b- Trưởng và Phó ban Công an xã, cán bộ trong Ban chỉ huy xã đội, đội tuần tra của dân quân tự vệ trong khi đang làm nhiệm vụ trong phạm vi xã mình.
Người có công sẽ được xét khen thưởng thích đáng.
Những điều quy định trước đây trái với nghị định này đề bãi bỏ.
Phạm Văn Đồng (Đã ký) |
- 1Thông tư liên bộ 01-LB năm 1966 quy định các chế độ sử dụng, bảo quản, vận chuyển, sản xuất, sửa chữa các loại súng đạn thể thao quốc phòng do Bộ Công An - Uỷ Ban Thể Dục Thể Thao ban hành
- 2Thông tư liên tịch 06/2013/TTLT-BVHTTDL-BCA quy định trang bị, quản lý, sử dụng vũ khí thể thao trong tập luyện và thi đấu thể thao do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Bộ Công an ban hành
Nghị định 175-CP năm 1964 về việc quản lý vũ khí quân dụng và vũ khí thể thao quốc phòng do Hội đồng Chính phủ ban hành
- Số hiệu: 175-CP
- Loại văn bản: Nghị định
- Ngày ban hành: 11/12/1964
- Nơi ban hành: Hội đồng Chính phủ
- Người ký: Phạm Văn Đồng
- Ngày công báo: 23/12/1964
- Số công báo: Số 44
- Ngày hiệu lực: 26/12/1964
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định