Hệ thống pháp luật

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 122-HĐBT

Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 1982

NGHỊ ĐỊNH

CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 122-HĐBT NGÀY 20 THÁNG 7 NĂM 1982 VỀ CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ CÁC CHƯƠNG TRÌNH TIẾN BỘ KHOA HỌC KỸ THUẬT TRỌNG ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng do Quốc hội thông qua ngày 4 tháng 7 năm 1981;
Căn cứ Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 192-CP ngày 13 tháng 10 năm 1975 của Hội đồng Chính phủ;
Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp Thường vụ ngày 22 tháng 10 năm 1980 về kế hoạch khoa học và kỹ thuật 5 năm 1981 - 1985;
Căn cứ Nghị định số 263-CP ngày 27 tháng 6 năm 1981 của Hội đồng Chính phủ về chế độ kế hoạch hoá khoa học kỹ thuật;
Để bảo đảm thực hiện có kết quả các chương trình tiến bộ khoa học kỹ thuật trọng điểm của Nhà nước;
Theo đề nghị của đồng chí Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước.

NGHỊ ĐỊNH:

Chương 1:

NHỮNG NGUYÊN TẮC CHUNG

Điều 1. Chương trình tiến bộ khoa học kỹ thuật trọng điểm của Nhà nước (dưới đây gọi tắt là "chương trình") là hệ thống đồng bộ các nhiệm vụ khoa học kỹ thuật (bao gồm các công việc: điều tra, nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm, sản xuất thử, đưa vào sản xuất, cải tiến tổ chức, hợp lý hoá sản xuất...) và các biện pháp thực hiện (tổ chức, đầu tư, xây dựng cơ bản...) nhằm góp phần giải quyết một hoặc một số mục tiêu trọng điểm của nền kinh tế quốc dân trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học và kỹ thuật.

Các chương trình tiến bộ khoa học kỹ thuật trọng điểm phải được thể hiện vào kế hoạch 5 năm, hàng năm và được quản lý theo chế độ thống nhất của Nhà nước.

Điều 2. Xuất phát từ mục tiêu được lựa chọn, về mặt nhiệm vụ khoa học kỹ thuật mỗi chương trình gồm hai nội dung chính:

Các nhiệm vụ áp dụng thành tựu khoa học và kỹ thuật.

Các vấn đề, đề tài điều tra, nghiên cứu khoa học kỹ thuật.

Quá trình thực hiện các nhiệm vụ nói trên phải bao quát từ việc nghiên cứu, điều tra đến việc áp dụng vào sản xuất ở quy mô nhất định, phải huy động được tối đa tiềm lực cán bộ khoa học kỹ thuật và cơ sở vật chất - kỹ thuật của các ngành, các địa phương, các cơ sở tham gia thực hiện nhằm bảo đảm đạt được các mục tiêu đề ra một cách vững chắc.

Điều 3. Các ngành, các cấp phải bảo đảm các điều kiện ưu tiên về cán bộ, tài chính, vật tư, xây dựng cơ bản, vận tải, hợp tác quốc tế về khoa học kỹ thuật và các mặt khác để thể hiện có kết quả các chương trình đã được thể hiện vào kế hoạch Nhà nước.

Điều 4. Trong việc quản lý các chương trình phải kết hợp vận dụng các chế độ hiện hành về kế hoạch hoá khoa học và kỹ thuật về ký kết hợp đồng, về khuyến khích tinh thần, vật chất để bảo đảm thực hiện chương trình.

Điều 5. Mỗi chương trình tiến bộ khoa học kỹ thuật trọng điểm của Nhà nước phải có một ban chủ nhiệm chương trình phụ trách, đứng đầu ban là một Chủ nhiệm chương trình.

Chủ nhiệm chương trình là một cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ chuyên môn, có phẩm chất chính trị và uy tín, có năng lực tổ chức nhất định, đủ sức đảm đương việc chỉ đạo chương trình do Bộ trưởng Bộ chủ trì giới thiệu, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước đề nghị và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quyết định.

Danh sách cán bộ tham gia ban chủ nhiệm chương trình do Chủ nhiệm chương trình giới thiệu, Bộ trưởng Bộ chủ trì đề nghị và Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước quyết định, sau khi nhất trí với các Bộ quản lý cán bộ.

Danh sách các chủ nhiệm hoặc ban chủ nhiệm các vấn đề, đề tài do Chủ nhiệm chương trình đề nghị Bộ chủ trì hoặc Bộ chủ quản quyết định.

Chương 2:

XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HOÁ CÁC CHƯƠNG TRÌNH TIẾN BỘ KHOA HỌC KỸ THUẬT TRỌNG ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC

Điều 6. Để bảo đảm sự thực hiện, mỗi chương trình tiến bộ khoa học kỹ thuật trọng điểm phải có một kế hoạch thực hiện và điều hoà được cơ quan có thẩm quyền duyệt trước khi ghi vào kế hoạch Nhà nước.

Điều 7. Kế hoạch thực hiện và điều hoà của mỗi chương trình bao gồm:

Các đề cương tiến hành từng nhiệm vụ, từng vấn đề hoặc đề tài trong chương trình.

Đề cương tổng hợp kế hoạch thực hiện toàn bộ chương trình, được xây dựng trên cơ sở các đề cương tiến hành từng nhiệm vụ, vấn đề, đề tài nói trên.

Các bản đề cương này phải xác định rõ mục tiêu cuối cùng của chương trình hoặc của nhiệm vụ, vấn đề, đề tài trong chương trình; hiệu quả kinh tế - xã hội cuối cùng cần đạt; nội dung, tiến độ thực hiện và phân công trách nhiệm cho từng cơ quan, từng chủ nhiệm đề tài; các điều kiện vật chất kỹ thuật và biện pháp tổ chức thực hiện.

Sau khi cơ quan có thẩm quyền duyệt và được thể hiện vào kế hoạch Nhà nước, bản kế hoạch thực hiện và điều hoà của mỗi chương trình là một văn bản có hiệu lực pháp lý đối với mọi cơ quan, cá nhân tham gia và có liên quan đến chương trình. Chủ nhiệm chương trình và các Chủ nhiệm đề tài có quyền căn cứ kế hoạch thực hiện và điều hoà để ký các hợp đồng với các cơ quan khác nhằm thực hiện chương trình.

Điều 8. Các chương trình và kế hoạch thực hiện và điều hoà của chương trình được xét duyệt theo nguyên tắc sau đây:

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng xét duyệt mục tiêu của chương trình, nội dung các vấn đề đưa vào chương trình quyết định Bộ chủ trì, bổ nhiệm Chủ nhiệm chương trình và quyết định những biện pháp lớn bảo đảm việc thực hiện.

Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước duyệt đề cương tổng hợp kế hoạch thực hiện chương trình.

Bộ trưởng bộ chủ trì chương trình duyệt các bản đề cương tiến hành từng nhiệm vụ, vấn đề, đề tài trong phạm vi chương trình và trên nguyên tắc bảo đảm sự ăn khớp với bản đề cương tổng hợp được duyệt.

Điều 9. Các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, các cơ quan, đơn vị cơ sở được phân công tham gia các chương trình, các cơ quan quản lý chức năng ở các ngành, các cấp có trách nhiệm thể hiện đầy đủ các nội dung tương ứng của kế hoạch thực hiện và điều hoà vào kế hoạch của ngành, địa phương, cơ quan đơn vị mình theo tinh thần ưu tiên như đã nói ở Điều 3 của Nghị định này.

Mọi việc bổ sung, sửa đổi các nhiệm vụ ghi trong bản kế hoạch thực hiện và điều hoà đều phải được Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước chấp thuận.

Điều 10. Chế độ báo cáo tình hình thực hiện chương trình

a- Các cơ quan, đơn vị và cán bộ được giao chủ trì nhiệm vụ, đề tài thuộc các chương trình có trách nhiệm báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao chủ yếu là đánh giá kết quả đạt được so với nhiệm vụ ghi trong kế hoạch thực hiện và điều hoà nêu những đề nghị cần thiết lên cơ quan có thẩm quyền giải quyết để tạo điều kiện cho chương trình được tiến hành thuận lợi. Thời gian báo cáo được quy định như sau:

Tháng 3 hàng năm: báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ trong 6 tháng (từ tháng 9 năm trước) và đề nghị điều chỉnh kế hoạch (nếu cần).

Tháng 9 hàng năm: báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ 12 tháng (từ tháng 9 năm trước) và đề nghị bố trí kế hoạch năm sau.

Các báo cáo này phải được gửi tới:

Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước;

Cơ quan chủ trì chương trình;

Chủ nhiệm chương trình;

Cơ quan chủ quản nhiệm vụ, vấn đề, đề tài.

b- Các cơ quan chủ quản nhiệm vụ, vấn đề, đề tài có trách nhiệm gửi báo cáo định kỳ cho cơ quan thống kê theo sự hướng dẫn của Tổng cục Thống kê.

c- Sau khi hoàn thành một nhiệm vụ, đề tài, cũng như khi kết thúc một bước quan trọng (ví dụ: hoàn thành nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, chuẩn bị đưa vào sản xuất...) cán bộ và cơ sở chủ trì việc thực hiện phải làm báo cáo để Ban chủ nhiệm chương trình kiểm tra và tổ chức đánh giá. Các kết quả đánh giá của Ban chủ nhiệm chương trình phải được gửi tới:

Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước;

Cơ quan chủ trì chương trình;

Cơ quan chủ quản nhiệm vụ, vấn đề, đề tài.

d- Trên cơ sở các bản đánh giá tình hình thực hiện từng nhiệm vụ, đề tài, sau khi kết thúc toàn bộ chương trình, Chủ nhiệm chương trình chịu trách nhiệm xây dựng bản báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện toàn bộ chương trình.

Bộ chủ trì tổ chức việc đánh giá và làm báo cáo chính thức trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, đồng thời gửi Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê .

Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước có trách nhiệm theo dõi chỉ đạo và nhận xét kết quả thực hiện các chương trình và tổng hợp báo cáo lên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Chương 3:

ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH VÀ CHẾ ĐỘ KHUYẾN KHÍCH

Điều 11. Nguồn tài chính của các chương trình gồm có:

1. Vốn ngân sách Nhà nước cấp, bao gồm:

Kinh phí sự nghiệp điều tra nghiên cứu khoa học kỹ thuật;

Vốn đầu tư cơ bản để xây dựng và trang bị các cơ sở kỹ thuật phục vụ trực tiếp cho chương trình;

Các nguồn vốn khác của Ngân sách Nhà nước, kể cả kinh phí chuyên dùng, nếu có.

2. Nguồn vốn tự có của đơn vị cơ sở được sử dụng vào mục đích áp dụng tiến bộ kỹ thuật.

3. Nguồn vốn do việc ký kết các hợp đồng đưa lại.

Điều 12. Kinh phí cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ, vấn đề, đề tài thuộc chương trình, sau khi được ghi vào kế hoạch Nhà nước phải được thể hiện vào ngân sách Nhà nước và các kế hoạch tài chính của ngành, địa phương và đơn vị cơ sở có liên quan và ghi thành một khoản, mục riêng. Các cơ quan cấp phát cũng như các cơ quan quản lý sử dụng kinh phí có trách nhiệm đáp ứng nhu cầu tài chính cho các chương trình theo đúng kế hoạch và dự toán được duyệt, không được tự ý điều chỉnh hoặc sử dụng các kinh phí đó vào các mục đích khác; nếu kiểm tra phát hiện việc sử dụng sai kinh phí thì cơ quan làm sai phải dùng kinh phí của mình bù trả lại.

Điều 13. Trong kinh phí sự nghiệp cấp cho chương trình được dành một tỷ lệ thích hợp cho hoạt động chung của Ban chủ nhiệm chương trình như chi phí hội nghị, thù lao khen thưởng các cán bộ và cơ quan thực hiện tốt chương trình v.v... tỷ lệ này do Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước cùng với Bộ Tài chính quy định.

Điều 14. Khi có những nhu cầu đột xuất nảy sinh trong quá trình thực hiện chương trình Bộ chủ trì và Chủ nhiệm chương trình phải gửi đề nghị bằng văn bản cho Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước.

Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan xem xét và kịp thời giải quyết. Trường hợp không giải quyết được phải báo cáo và xin ý kiến Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Điều 15. Tuỳ theo đề nghị của Bộ chủ trì và của Chủ nhiệm chương trình, kinh phí hàng năm dành cho các chương trình có thể hoặc phân bổ trực tiếp cho các cơ quan tham gia chương trình, hoặc cấp toàn bộ cho Bộ chủ trì để Chủ nhiệm chương trình phân bổ cho các cơ quan tham gia chương trình và ký hợp đồng với cơ quan khác có liên quan.

Điều 16:. Hàng năm căn cứ đề nghị của Bộ chủ trì, của Chủ nhiệm chương trình và Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quyết định việc khen thưởng về tinh thần và vật chất cho các cơ quan, đơn vị, tập thể và cá nhân có thành tích trong việc thực hiện chương trình.

Điều 17. 6 tháng một lần, trên cơ sở danh sách do Bộ chủ trì, Bộ chủ quản và Chủ nhiệm chương trình đề nghị, Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật nhà nước xét cấp phụ cấp trách nhiệm cho các thành viên Ban chủ nhiệm chương trình và các Chủ nhiệm đề tài.

Chế độ phụ cấp trách nhiệm cho Ban chủ nhiệm chương trình và các Chủ nhiệm đề tài do Bộ Tài chính và Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước ra thông tư liên Bộ quy định.

Điều 18. Các cơ quan, đơn vị và cá nhân vì thiếu trách nhiệm mà không hoàn thành các nhiệm vụ và đề tài được phân công trong kế hoạch thực hiện và điều hoà tuỳ theo mức độ phạm lỗi sẽ bị thi hành kỷ luật thích đáng.

Chương 4:

TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN VÀ CÁN BỘ KHOA HỌC KỸ THUẬT ĐỐI VỚI CÁC CHƯƠNG TRÌNH TIẾN BỘ KHOA HỌC KỸ THUẬT TRỌNG ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC

Điều 19. Các Bộ, Tổng cục, các Uỷ ban nhân dân địa phương các đơn vị cơ sở và cán bộ khoa học kỹ thuật được phân công thực hiện chương trình đều có trách nhiệm bảo đảm thực hiện có chất lượng và đúng tiến độ các nhiệm vụ và đề tài được giao.

Điều 20. Bộ trưởng các Bộ được giao chủ trì các chương trình phải chịu trách nhiệm trước Hội đồng Bộ trưởng về toàn bộ quá trình thực hiện chương trình từ khâu xây dựng kế hoạch thực hiện và điều hoà, bố trí các điều kiện thực hiện (cán bộ tài chính, vật tư... và sử dụng các cơ quan chức năng của Bộ để giúp Chủ nhiệm chương trình hoạt động), đến khâu báo cáo, tổng kết hoàn thành mục tiêu được đề ra cho chương trình.

Điều 21. Dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ chủ trì chương trình, Chủ nhiệm chương trình cùng với Ban chủ nhiệm chương trình có trách nhiệm:

Tổ chức xây dựng kế hoạch thực hiện và điều hoà của chương trình;

Tổ chức thực hiện kế hoạch đó;

Giao các nhiệm vụ thực hiện chương trình cho các cơ sở trực thuộc đảm nhiệm hoặc ký các hợp đồng với các cơ quan, đơn vị có liên quan;

Kiểm tra đôn đốc các ngành, các địa phương, các cơ sở thực hiện chương trình;

Chỉ đạo hoạt động của các Chủ nhiệm đề tài thuộc chương trình;

Nắm tình hình thực hiện toàn bộ chương trình và làm báo cáo theo chế độ quy định; đề xuất các kiến nghị về điều chỉnh hoặc bổ sung kế hoạch thực hiện và điều hoà; đề nghị khen thưởng, kỷ luật và đề nghị cấp phụ cấp trách nhiệm cho các thành viên Ban chủ nhiệm và các Chủ nhiệm đề tài;

Tổ chức việc đánh giá tổng kết các kết quả đạt được của từng nhiệm vụ, đề tài và của toàn bộ chương trình sau khi kết thúc và làm báo cáo theo chế độ quy định.

Điều 22. Chủ nhiệm chương trình có những quyền hạn sau đây:

Yêu cầu Bộ trưởng Bộ chủ trì và các cơ quan có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện thực hiện chương trình theo đúng chế độ đã quy định. Trong trường hợp các cơ quan nói trên không làm đúng trách nhiệm thì Chủ nhiệm chương trình có quyền báo cáo lên Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước hoặc Chủ tịch Hội Đồng Bộ trưởng để can thiệp.

Được Bộ trưởng Bộ chủ trì uỷ nhiệm ra các chỉ thị bắt buộc thực hiện đối với thủ trưởng các đơn vị cơ sở và các Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu - triển khai khi phát hiện thấy có sự vi phạm hoặc không đáp ứng các yếu cầu của chương trình, vi phạm các nguyên tắc và chế độ quản lý chương trình. Trong trường hợp đã có chỉ thị của Chủ nhiệm chương trình mà thủ trưởng các đơn vị cơ sở và Chủ nhiệm đề tài vẫn không chấp hành thì Chủ nhiệm chương trình có quyền yêu cầu các cơ quan quản lý đơn vị hoặc quản lý cán bộ xử lý, kể cả việc ra các quyết định thi hành kỷ luật đối với những người thiếu trách nhiệm.

Được uỷ nhiệm của Bộ trưởng ký các hợp đồng với các cơ sở có tư cách pháp nhân để thực hiện chương trình.

Được Bộ trưởng uỷ nhiệm duyệt các bản đề cương tiến hành nhiệm vụ, đề tài trong chương trình; lựa chọn để giới thiệu các Chủ nhiệm đề tài.

Yêu cầu Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước giám sát và kiểm tra các cơ quan cấp phát tài chính cho chương trình. Phân bổ, điều chỉnh và áp dụng các hình thức sử dụng có hiệu qủa nhất số kinh phí được Nhà nước cấp cho các chương trình.

Điều 23. Chủ nhiệm đề tài có nhiệm vụ:

Xây dựng đề cương tiến hành đề tài theo sự hướng dẫn của Chủ nhiệm chương trình. Sau khi đề cương được duyệt chịu trách nhiệm trước Chủ nhiệm chương trình tổ chức thực hiện theo đúng yêu cầu chất lượng và tiến độ.

Định kỳ báo cáo tình hình thực hiện đề tài theo chế độ của Nhà nước và theo yêu cầu của Chủ nhiệm chương trình.

Cung cấp đầy đủ các tài liệu, số liệu và báo cáo tổng kết đáp ứng những yêu cầu đánh giá kết quả đề tài theo quy định của Nhà nước và của Chủ nhiệm chương trình.

Điều 24. Chủ nhiệm đề tài có quyền hạn:

Yêu cầu chủ nhiệm chương trình, thủ trưởng và các tổ chức hữu quan của cơ quan mình (Viện trưởng...) đáp ứng những nhu cầu về bố trí kế hoạch hàng năm, 5 năm cũng như về việc bảo đảm các điều kiện thực hiện ưu tiên như nêu trong Điều 3 và phù hợp với đề cương tiến hành được cấp có thẩm quyền duyệt.

Do ý nghĩa qnan trọng của các đề tài nên các Chủ nhiệm chương trình, các thủ trưởng và các tổ chức hữu quan nói trên cần thực hiện thật tốt yêu cầu này tạo mọi thuận lợi cho Chủ nhiệm đề tài hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Sau khi có sự thoả thuận của Chủ nhiệm chương trình bằng văn bản, được uỷ quyền của thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp ký các hợp đồng với các cơ quan hữu quan để thực hiện một số nội dung của đề tài nếu thấy cần thiết.

Kiến nghị Chủ nhiệm chương trình hoặc thủ trưởng các cơ quan Nhà nước giúp đỡ thực hiện các nhiệm vụ .

Điều 25. Các bộ có đơn vị thuộc quyền được giao thực hiện đề tài trong chương trình (trong văn bản gọi tắt là Bộ chủ quản) có trách nhiệm:

Chỉ đạo và đôn đốc, kiểm tra các cơ quan, đơn vị và cán bộ thuộc quyền thực hiện tốt những nhiệm vụ được giao.

Chỉ đạo các đơn vị thuộc quyền và Chủ nhiệm đề tài thực hiện đúng các chế độ về đăng ký, báo cáo thanh quyết toán thu chi tài chính do Nhà nước quy định.

Chịu trách nhiệm trước Hội đồng Bộ trưởng về kết quả thực hiện các đề tài theo đề cương đã được cấp có thẩm quyền duyệt và theo kế hoạch Nhà nước giao.

Điều 26. Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước có trách nhiệm:

Nghiên cứu và lập dự án danh mục các chương trình và danh sách các Chủ nhiệm chương trình trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng duyệt.

Quyết định danh sách các Ban chủ nhiệm chương trình.

Nghiên cứu và giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng xem xét các đề án kế hoạch thực hiện và điều hoà trước khi duyệt.

Sau khi kế hoạch thực hiện và điều hoà các chương trình được cơ quan có thẩm quyền duyệt, Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước phối hợp với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính tổng hợp vào dự án kế hoạch khoa học và kỹ thuật 5 năm và hàng năm trình Hội đồng Bộ trưởng phê chuẩn.

Kiểm tra đôn đốc các ngành, các địa phương, các cơ quan đơn vị được phân công thực hiện các chương trình theo đúng yêu cầu về chất lượng và thời gian quy định.

Tổng kết và đánh giá kết quả thực hiện các chương trình để báo cáo lên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng xem xét các đề nghị có liên quan đến các chương trình, kể cả các đề nghị khen thưởng hoặc kỷ luật.

Duyệt phụ cấp trách nhiệm cho các thành viên Ban chủ nhiệm và các Chủ nhiệm đề tài theo chế độ quy định.

Phối hợp với các cơ quan, xây dựng và ban hành các chế độ thể lệ, nhằm tăng cường quản lý các chương trình theo tinh thần của bản Nghị định này.

Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước được quyền giữ lại 4% ngân sách Nhà nước hàng năm dành cho hoạt động khoa học kỹ thuật để có điều kiện kịp thời đáp ứng các nhu cầu đột xuất nảy sinh trong quá trình thực hiện chương trình.

Điều 27. Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Vật tư và các cơ quan quản lý chức năng khác trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước, tổ chức quản lý các chương trình theo các quy định trong Nghị định này.

Chương 5:

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 28. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Các văn bản quy định trước đây trái với Nghị định này đều bãi bỏ.

Các đồng chí Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương có trách nhiệm thi hành Nghị định này.

Điều 29. Căn cứ Nghị định này, Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Vật tư và các ngành có liên quan, trong phạm vi chức năng của mình, có trách nhiệm ban hành các văn bản cụ thể hướng dẫn việc thực hiện và theo dõi kiểm tra việc thi hành Nghị định này ở các ngành, các cấp.

Võ Nguyên Giáp

(Đã ký)

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Nghị định 122-HĐBT năm 1982 về chế độ quản lý các chương trình tiến bộ khoa học kỹ thuật trọng điểm của Nhà nước do Hội đồng Bộ trưởng ban hành

  • Số hiệu: 122-HĐBT
  • Loại văn bản: Nghị định
  • Ngày ban hành: 20/07/1982
  • Nơi ban hành: Hội đồng Bộ trưởng
  • Người ký: Võ Nguyên Giáp
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: Kiểm tra
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
Tải văn bản