Hệ thống pháp luật

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 785/BGDĐT-GDTrH
V/v trả lời kiến nghị của cử tri gửi tới sau kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV

Hà Nội, ngày 07 tháng 03 năm 2022

 

Kính gửi: Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Bình

Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) nhận được kiến nghị của cử tri tỉnh Quảng Bình gửi tới sau kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV do Ban Dân nguyện chuyển đến tại Công văn số 19/BDN ngày 10/01/2022.

Nội dung kiến nghị:

Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu sớm ban hành quy định giảm số lượng học sinh tối đa trên lớp nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng các kỹ thuật, phương pháp dạy học tích cực, đáp ứng yêu cầu thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 (đối với cấp trung học cơ sở và THPT không quá 40 học sinh/lớp, đối với cấp tiểu học không quá 30 học sinh/lớp). Kịp thời ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012 hoặc ban hành văn bản hướng dẫn mới về hoạt động dạy thêm, học thêm; phối hợp với Bộ Tài chính để sớm ban hành quy định về chi trả kinh phí cho việc lựa chọn sách giáo khoa để các địa phương có cơ sở thanh toán kịp thời (Câu 55).

Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) cảm ơn quan tâm của cử tri tỉnh Quảng Bình. Về vấn đề này, Bộ GDĐT xin được trả lời như sau:

1. Về việc ban hành quy định giảm số lượng học sinh tối đa trên lớp nhằm tạo điều kiện cho việc áp dụng các kỹ thuật, phương pháp dạy học tích cực, đáp ứng yêu cầu thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018

Sĩ số học sinh/lớp được quy định tại Điều lệ trường tiểu học1 và điều lệ trường trung học2, cụ thể như sau:

- Đối với trường tiểu học, theo quy định tại khoản 1 Điều 17: Bảo đảm mỗi lớp học có không quá 35 học sinh.

- Đối với trường trung học (trường trung học cơ sở và trường trung học phổ thông), theo quy định tại khoản 3 Điều 16: Bảo đảm mỗi lớp học không quá 45 học sinh.

Cũng theo quy định tại khoản 3 Điều 16 Điều lệ trường trung học quy định: “Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố quy định cụ thể số học sinh trong mỗi lớp học theo hướng giảm sĩ số học sinh trên lớp”.

Như vậy, căn cứ vào nguồn lực kinh tế-xã hội, điều kiện cơ sở vật chất nhà trường, đội ngũ giáo viên, số lượng học sinh của từng địa phương khác nhau, Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố quyết định và có lộ trình giảm sĩ số học sinh trên lớp cho phù hợp với yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới.

2. Về việc ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012 hoặc ban hành văn bản hướng dẫn mới về hoạt động dạy thêm, học thêm

Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012 của Bộ trưởng Bộ GDĐT quy định về dạy thêm, học thêm (Thông tư số 17) đã quy định rõ trách nhiệm quản lý hoạt động DTHT, bao gồm: trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; trách nhiệm của Sở GDĐT; trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện; trách nhiệm của Phòng GDĐT; trách nhiệm của hiệu trưởng và thủ trưởng các cơ sở giáo dục; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tổ chức hoạt động DTHT ngoài nhà trường; thanh tra, kiểm tra; xử lý vi phạm3.

Sau khi Luật sửa đổi Luật Đầu tư4 đưa hoạt động DTHT ra khỏi Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, một số Điều quy định về điều kiện và cấp phép tổ chức DTHT (Điều 6, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14) tại Thông tư số 17 không còn hiệu lực. Tuy nhiên, các quy định khác của Thông tư số 17 vẫn có hiệu lực thi hành như quy định về nguyên tắc DTHT, các trường hợp không được DTHT, trách nhiệm quản lý hoạt động DTHT của địa phương, cơ sở giáo dục. Hoạt động DTHT phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản sau: Không tổ chức lớp DTHT theo các lớp học chính khóa; học sinh trong cùng một lớp dạy thêm, học thêm phải có học lực tương đương nhau, khi xếp học sinh vào các lớp DTHT phải căn cứ vào học lực của học sinh; không cắt giảm nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông chính khóa để đưa vào giờ dạy thêm; không dạy thêm trước những nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông chính khóa; đối tượng học thêm là học sinh có nhu cầu học thêm, tự nguyện học thêm và được gia đình đồng ý; không được dùng bất cứ hình thức nào để ép buộc gia đình học sinh và học sinh học thêm; hoạt động DTHT phải góp phần củng cố, nâng cao kiến thức, kỹ năng, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và không gây nên tình trạng vượt quá sức tiếp thu của học sinh.

Về các trường hợp không được DTHT, Thông tư số 17 đã quy định: không dạy thêm đối với học sinh đã được nhà trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày; không dạy thêm đối với học sinh tiểu học, trừ các trường hợp bồi dưỡng về nghệ thuật, thể dục thể thao, rèn luyện kỹ năng sống; đối với giáo viên đang hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập không được dạy thêm ngoài nhà trường đối với học sinh mà giáo viên đang dạy chính khóa khi chưa được sự cho phép của thủ trưởng cơ quan quản lý giáo viên đó.

Căn cứ vào các quy định vẫn còn hiệu lực của Thông tư số 17, các địa phương cần tiếp tục có biện pháp quản lý hoạt động DTHT bảo đảm minh bạch, không tiêu cực, không sai quy định của Thông tư. Trên thực tế, nhiều địa phương căn cứ vào các điều còn hiệu lực của Thông tư số 17 đã ban hành các văn bản quy định việc quản lý hoạt động DTHT tại địa phương có hiệu quả, đặc biệt là hoạt động DTHT ngoài nhà trường; các hoạt động DTHT trong nhà trường thì phải thực hiện theo Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học ban hành kèm theo Thông tư số 32/2020/TT-BGDĐT ngày 15/9/2020 của Bộ trưởng Bộ GDĐT.

Tiếp thu ý kiến của cử tri, thời gian tới Bộ GDĐT sẽ tiếp tục tham mưu Chính phủ đề xuất Quốc hội đưa hoạt động DTHT vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Sau khi hoạt động DTHT được đưa vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện, Bộ sẽ nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý hoạt động DTHT (sửa Thông tư số 17) nhằm bảo đảm phù hợp, thuận lợi cho công tác quản lý hoạt động DTHT trong và ngoài nhà trường.

3. Về việc phối hợp với Bộ Tài chính để sớm ban hành quy định về chi trả kinh phí cho việc lựa chọn sách giáo khoa để các địa phương có cơ sở thanh toán kịp thời

Để thuận lợi cho các địa phương có căn cứ chi trả kinh phí cho việc lựa chọn sách giáo khoa, Bộ GDĐT đã có Công văn số 6199/BGDĐT-KHTC ngày 29/12/2021 và Công văn số 464/BGDĐT-KHTC ngày 14/02/2021 về việc hướng dẫn về nội dung, mức chi cho việc lựa chọn sách giáo khoa trong các cơ sở giáo dục phổ thông. Ngày 21/02/2022, Bộ Tài chính đã có Công văn số 1671/BTC-HCSN về việc nội dung, mức chi cho việc lựa chọn sách giáo khoa trong cơ sở giáo dục phổ thông.

Bộ Giáo dục và Đào tạo trân trọng báo cáo./.

 


Nơi nhận:
- Như trên;
- Ban Dân nguyện thuộc UBTVQH;
- Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội;
- BT, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ;
- Chủ nhiệm Ủy ban VHGD của QH;
- Vụ Tổng hợp, VPQH;
- Các Thứ trưởng;
- Lưu: VT, GDTrH.

BỘ TRƯỞNG




Nguyễn Kim Sơn

 



1 Thông tư số 28/2020/TT-BGDĐT ngày 04/9/2020 của Bộ GDĐT.

2 Thông tư số 32/2020/TT-BGDĐT ngày 15/9/2020 của Bộ GDĐT.

3 Điều 15 đến Điều 22, Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT ngày 16/5/2012 của Bộ trưởng Bộ GDĐT.

4 Luật số 03/2016/QH14.

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Công văn 785/BGDĐT-GDTrH năm 2022 thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành

  • Số hiệu: 785/BGDĐT-GDTrH
  • Loại văn bản: Công văn
  • Ngày ban hành: 07/03/2022
  • Nơi ban hành: Bộ Giáo dục và Đào tạo
  • Người ký: Nguyễn Kim Sơn
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: Kiểm tra
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
Tải văn bản