Điều 38 Công ước Viên của Liên hợp quốc ngày 19/04/1961 về quan hệ ngoại giao
2. Những thành viên khác của cơ quan đại diện và những người phục vụ riêng là công dân Nước tiếp nhận hoặc có nơi cư trú thường xuyên ở nước đó chỉ được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ trong phạm vi được nước đó công nhận. Tuy nhiên, Nước tiếp nhận phải thi hành quyền xét xử của mình đối với những người này sao cho không cản trở quá đáng việc thực hiện các chức năng của cơ quan đại diện.
Công ước Viên của Liên hợp quốc ngày 19/04/1961 về quan hệ ngoại giao
- Số hiệu: Khôngsố
- Loại văn bản: Điều ước quốc tế
- Ngày ban hành: 18/04/1961
- Nơi ban hành: Quốc hội
- Người ký:
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 19/05/1961
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
MỤC LỤC VĂN BẢN
- Điều 1. Trong Công ước này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
- Điều 2. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa các nước và việc lập các cơ quan đại diện ngoại giao thường trú được tiến hành theo sự thoả thuận giữa các bên với nhau.
- Điều 3. 1. Chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao cụ thể gồm có:
- Điều 4. 1. Nước cử đi phải nắm chắc rằng người mình định bổ nhiệm làm người đứng đầu cơ quan đại diện tại Nước tiếp nhận đã được nước đó chấp thuận.
- Điều 5. 1. Nước cử đi, sau khi thông báo hợp lệ cho các nước tiếp nhận hữu quan, có thể bổ nhiệm một người đứng đầu cơ quan đại diện hoặc cử bất cứ một cán bộ ngoại giao nào, tuỳ theo trường hợp tại một hoặc nhiều nước, trừ khi trong số các nước tiếp nhận có nước phản đối một cách rõ ràng.
- Điều 6. Hai hay nhiều nước có thể bổ nhiệm cùng một người làm người đứng đầu cơ quan đại diện tại một nước khác, nếu nước tiếp nhận không phản đối việc đó.
- Điều 7. Ngoài các trường hợp đã quy định ở các Điều 5, 8, 9, 11 Nước cử đi được tự do cử các thành viên của cơ quan đại diện. Đối với các tuỳ viên quân sự, hải quân hoặc không quân, Nước tiếp nhận có thể yêu cầu được thông báo trước họ tên những người này để chấp nhận.
- Điều 8. 1. Các cán bộ ngoại giao của cơ quan đại diện về nguyên tắc, là công dân Nước cử đi
- Điều 9. 1. Nước tiếp nhận có thể, vào bất cứ lúc và không phải nêu lý do về quyết định của mình, báo cho Nước cử đi rằng người đứng đầu cơ quan đại diện hay bất cứ một cán bộ ngoại giao nào của cơ quan đại diện là "persona non grata" (người không được hoan nghênh) hoặc bất cứ một thành viên nào khác của cơ quan đại diện là người không được chấp nhận. Khi đó, Nước cử đi sẽ, tuỳ theo trường hợp, hoặc gọi người đó về , hoặc chấm dứt chức vụ của người đó trong cơ quan đại diện. Một người có thể bị tuyên bố "persona non grata" hoặc không được chấp nhận trước khi đến lãnh thổ Nước tiếp nhận.
- Điều 10. 1. Bộ Ngoại giao hoặc một Bộ nào khác đã được thoả thuận của Nước tiếp nhận được thông báo về:
- Điều 11. 1. Khi không có thoả thuận cụ thể về số lượng cán bộ nhân viên của cơ quan đại diện, Nước tiếp nhận có thể yêu cầu giữ con số đó trong giới hạn mà nước đó cho là hợp lý và bình thường, căn cứ vào hoàn cảnh, điều kiện của Nước tiếp nhận và các nhu cầu của cơ quan đại diện.
- Điều 12. Nếu không được Nước tiếp nhận chấp thuận một cách rõ ràng từ trước, Nước cử đi không được lập các văn phòng thuộc cơ quan đại diện tại các địa phương khác ngoài nơi cơ quan đại diện đóng.
- Điều 13. 1. Người đứng đầu cơ quan đại diện được coi là đã nhậm chức tại Nước tiếp nhận kể từ khi đã trình thư uỷ nhiệm hoặc kể từ khi đã thông báo là đã đến và đã trao một bản sao y thư uỷ nhiệm cho Bộ Ngoại giao Nước tiếp nhận hoặc một Bộ nào khác đã được thoả thuận, theo thực tiễn hiện hành ở Nước tiếp nhận và thực tiễn đó phải được áp dụng một cách nhất quán.
- Điều 14. 1. Những người đứng đầu cơ quan đại diện được phân làm ba cấp như sau:
- Điều 15. Các nước thoả thuận với nhau về việc người đứng đầu cơ quan đại diện của mình thuộc cấp nào.
- Điều 16. 1. Người đứng đầu cơ quan đại diện giữ trình tự ngôi thứ ở từng cấp căn cứ vào ngày và giờ nhậm chức, theo Điều 13.
- Điều 17. Trình tự ngôi thứ giữa các bọ ngoại giao của cơ quan đại diện do người đứng đầu cơ quan đại diện thông báo cho Bộ Ngoại giao hoặc một bộ nào khác được thoả thuận.
- Điều 18. Ở mỗi nước thủ tục áp dụng cho việc tiếp đón những người đứng đầu cơ quan đại diện phải nhất quán ở từng cấp.
- Điều 19. 1. Nếu chức vị người đứng đầu cơ quan đại diện bị khuyết hoặc nếu người đứng đầu cơ quan đại diện không thể thực hiện chức năng của mình thì một đại diện lâm thời sẽ tạm thời là người đứng đầu cơ quan đại diện. Họ tên của đại biện lâm thời đó, hoặc do người đứng đầu cơ quan đại diện, hoặc, nếu người đứng đầu cơ quan đại diện không làm được, do Bộ Ngoại giao Nước cử đi thông báo cho Bộ ngoại giao Nước tiếp nhận hoặc một Bộ nào khác đã được thoả thuận.
- Điều 20. Cơ quan đại diện và người đứng đầu cơ quan đại diện có quyền treo quốc kỳ và quốc huy của Nước cử đi trên các trụ sở của cơ quan đại diện, kể cả trên nhà ở và các phương tiện đi lại của người đứng đầu cơ quan đại diện.
- Điều 21. 1. Nước tiếp nhận cần phải, hoặc tạo điều kiện dễ dàng để Nước cử đi có được trên lãnh thổ và phù hợp với luật pháp Nước tiếp nhận, trụ sở cần thiết cho cơ quan đại diện, hoặc giúp Nước cử đi có trụ sở bằng một cách khác.
- Điều 22. 1. Trụ sở của cơ quan đại diện là bất khả xâm phạm. Chính quyền Nước tiếp nhận không được vào nơi đó nếu không có sự đồng ý của người đứng đầu cơ quan đại diện.
- Điều 23. 1. Nước cử đi và người đứng đầu cơ quan đại diện được miễn tất cả các thứ thuế và lệ phí của Nhà nước, khu vực hay thành phố đánh vào trụ sở của cơ quan đại diện mà họ là người sở hữu hay người thuê, trừ các loại thuế và lệ phí là các khoản thu về các dịch vụ cụ thể.
- Điều 24. Hồ sơ và tài liệu của cơ quan đại diện là bất khả xâm phạm bất cứ vào lúc nào và bất kỳ để ở đâu.
- Điều 25. Nước tiếp nhận dành mọi sự dễ dàng để cơ quan đại diện thực hiện các chức năng của họ.
- Điều 26. Không trái với luật lệ của mình về các khu vực mà việc ra vào bị cấm hoặc phải theo quy định vì lý do an ninh quốc gia, Nước tiếp nhận phải bảo đảm cho tất cả các thành viên của cơ quan đại diện được tự do đi lại trên lãnh thổ của mình.
- Điều 27. 1. Nước tiếp nhận phải cho phép và bảo vệ việc tự do thông tin liên lạc của cơ quan đại diện về mọi việc công. Khi liên lạc với Chính phủ cũng như với các cơ quan đại diện khác và các cơ quan lãnh sự của nước mình đóng bất kỳ ở đâu, cơ quan đại diện Nước cử đi có thể dùng mọi phương tiện thông tin liên lạc thích hợp, kể cả giao thông viên ngoại giao và điện tín bằng mật mã hay số hiệu. Tuy nhiên, chỉ khi nào được Nước tiếp nhận đồng ý, cơ quan đại diện mới được đặt và sử dụng đài phát vô tuyến.
- Điều 28. Các khoản tiền mà cơ quan đại diện thu trong việc tiến hành các công việc được miễn mọi thứ thuế và lệ phí.
- Điều 29. Thân thể của viên chức ngoại giao là bất khả xâm phạm. Họ không thể bị bắt hoặc bị giam giữ dưới bất cứ hình thức nào. Nước tiếp nhận cần có sự đối xử trọng thị xứng đáng với họ và áp dụng mọi biện pháp thích đáng để ngăn chặn mọi hành vi xúc phạm đến thân thể, tự do hay phẩm cách của họ.
- Điều 30. 1. Nhà riêng của viên chức ngoại giao cũng được hưởng quyền bất khả xâm phạm và được bảo vệ như trụ sở của cơ quan đại diện.
- Điều 31. 1. Viên chức ngoại giao được hưởng quyền miễn trừ xét xử về hình sự của Nước tiếp nhận. Họ cũng được hưởng quyền miễn trừ xét xử về dân sự và hành chính, trừ những trường hợp sau:
- Điều 32. 1. Nước cử đi có thể từ bỏ quyền miễn trừ xét xử của các viên chức ngoại giao và của những người được quyền miễn trừ theo Điều 37.
- Điều 33. 1. Viên chức ngoại giao được miễn thực hiện các quy định hiện hành về chế độ bảo hiểm ở Nước tiếp nhận đối với các công việc phục vụ cho Nước cử đi, trừ các quy định ở Đoạn 3 Điều này.
- Điều 34. Viên chức ngoại giao được miễn mọi thứ thuế và lệ phí của Nhà nước, khu vực hay thành phố đánh vào người hoặc hiện vật, trừ:
- Điều 35. Nước tiếp nhận phải miễn cho viên chức ngoại giao mọi nghĩa vụ lao động và Nhà nước bất luận mang tính chất nào và những nghĩa vụ quân sự như trưng dụng, các thứ đảm phụ và việc cung cấp nơi ở cho quân đội.
- Điều 36. 1. Phù hợp với luật pháp và các quy định của mình, Nước tiếp nhận cho phép nhập khẩu và miễn thuế quan, các loại thuế và các khoản thu khác có liên quan, trừ các khoản thu về lưu kho, vận chuyển và các dịch vụ tương tự, đối với:
- Điều 37. 1. Các thành viên gia đình của viên chức ngoại giao cùng sống chung với người đó, nếu không phải là công dân Nước tiếp nhận, được hưởng những quyền ưu đãi và miễn trừ nêu trong các Điều từ 29 đến 36.
- Điều 38. 1. Trừ phi được Nước tiếp nhận cho hưởng thêm các quyền ưu đãi và miễn trừ, viên chức ngoại giao có quốc tịch Nước tiếp nhận hoặc có nơi cư trú thường xuyên ở Nước này chỉ được hưởng quyền miễn trừ xét xử và quyền bất khả xâm phạm đối với những hành vi chính thức trong khi thi hành các chức năng của họ.
- Điều 39. 1. Người được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ có được các quyền đó từ khi vào lãnh thổ Nước tiếp nhận để nhận chức; nếu người đó đã có mặt trên lãnh thổ Nước tiếp nhận thì kể từ khi thông báo về việc bổ nhiệm người đó cho Bộ Ngoại giao hay một Bộ nào khác đã được thoả thuận.
- Điều 40. 1. Nếu viên chức ngoại giao đi qua hoặc đang ở trên lãnh thổ một nước thứ ba mà nước này đã cấp thị thực cho người đó, trong trường hợp cần phải có thị thực, để đi nhận chức hoặc để trở lại nhiệm sở của họ, hoặc để về nước thì nước thứ ba cho người đó hưởng quyền bất khả xâm phạm và mọi quyền miễn trừ cần thiết khác của họ đi qua hoặc trở về. Nước thứ ba cũng làm như thế đối với những thành viên gia đình của viên chức ngoại giao đó được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao đó khi cùng đi với họ hoặc đi riêng để đến với họ hoặc để về nước.
- Điều 41. 1. Không làm phương hại đến các quyền ưu đãi và miễn trừ của mình, tất cả những người hưởng các quyền đó có nghĩa vụ lớn trong luật lệ của Nước tiếp nhận. Họ cũng có nghĩa vụ không được can thiệp vào công việc nội bộ của Nước tiếp nhận.
- Điều 42. Viên chức ngoại giao không được tiến hành ở Nước tiếp nhận một hoạt động nghề nghiệp hoặc thương mại nào nhằm mục đích kiếm lợi riêng.
- Điều 43. Các chức năng của viên chức ngoại giao chấm dứt trong những trường hợp sau đây:
- Điều 44. Nước tiếp nhận, ngay cả trong trường hợp có xung đột vũ trang, phải dành sự giúp đỡ cần thiết để những người được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ không phải là công dân Nước tiếp nhận, cũng như các thành viên gia đình họ, không phân biệt quốc tịch nào, được rời khỏi lãnh thổ Nước tiếp nhận trong thời hạn sớm nhất. Đặc biệt, nếu cần, Nước tiếp nhận phải dành cho họ các phương tiện vận chuyển cần thiết cho bản thân họ và tài sản của họ.
- Điều 45. Trong trường hợp quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt hoặc cơ quan đại diện được rút về hẳn hoặc tạm thời:
- Điều 46. Với sự đồng ý của Nước tiếp nhận và theo yêu cầu của một nước thứ ba không có đại diện ở nước này. Nước cử đi có thể đảm nhiệm việc bảo vệ tạm thời các quyền lợi của nước thứ ba và của công dân nước đó.
- Điều 47. 1. Khi áp dụng các điều khoản của Công ước này, Nước tiếp nhận không được phân biệt đối xử giữa các nước.
- Điều 48. Công ước này để ngỏ cho việc ký của tất cả các nước thành viên của Liên hiệp quốc hoặc của một tổ chức chuyên môn, cũng như của các nước tham gia Quy chế của Toà án quốc tế hoặc của bất cứ một nước nào khác được Đại hội đồng Liên hợp quốc mời tham gia Công ước, theo cách thức sau: cho đến ngày 31 tháng 10 năm 1961, ký, tại Bộ Ngoại giao Liên bang của nước Áo và sau đó đến ngày 31 tháng 3 năm 1962, ký tại Trụ sở Liên hợp quốc ở Niu Yoóc.
- Điều 49. Công ước này cần được phê chuẩn, các thư phê chuẩn nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.
- Điều 50. Công ước này để ngỏ cho việc gia nhập của bất cứ nước nào thuộc một trong bốn loại nêu trên ở Điều 48. Các văn kiện gia nhập nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.
- Điều 51. 1. Công ước này bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày thứ ba mươi tiếp theo sau ngày văn kiện phê chuẩn hay gia nhập thứ hai mươi hai được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên hợp quốc.
- Điều 52. Tổng thư ký Liên hợp quốc thông báo cho tất cả các nước thuộc một trong bốn loại nêu ở Điều 48;
- Điều 53. Nguyên bản Công ước này, được lập bằng các thứ tiếng Anh, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Pháp và Nga có giá trị như nhau, sẽ được nộp lưu chiểu cho Tổng thư ký Liên hợp quốc và Tổng thư ký sẽ gửi bảo sao có xác nhận y bản chính cho tất cả các nước thuộc một trong bốn loại nêu ở Điều 48.