Hệ thống pháp luật
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...
Đang tải nội dung, vui lòng chờ giây lát...

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 33-TTg

Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 1963 

 

CHỈ THỊ

VỀ VIỆC XÉT DUYỆT QUỸ XÍ NGHIỆP NĂM 1962

 THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Kính gửi

- Các Bộ, các cơ quan ngang Bộ
- Các Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh

 

Mấy năm qua, việc thi hành chế độ quỹ xí nghiệp đã có nhiều tác dụng: khuyến khích các xí nghiệp, công trường ra sức đẩy mạnh sản xuất, cải tiến quản lý, hoàn thành vượt mức và toàn diện kế hoạch Nhà nước; cổ vũ nhiệt tình lao động của công nhân, cán bộ; góp phần củng cố và nâng cao chất lượng hạch toán kinh tế.

Tuy nhiên, tác dụng ấy còn bị hạn chế. Một mặt vì trong điều kiện quản lý kinh tế và kế hoạch của ta còn thấp thì đánh giá việc hoàn thành hay không hoàn thành kế hoạch đối với mỗi xí nghiệp để quyết định cho trích hay không cho trích quỹ xí nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan mà các Hội đồng xét duyệt quỹ xí nghiệp chưa có điều kiện cân nhắc chính xác; mặt khác; còn do các Hội đồng xét quyệt quỹ xí nghiệp chưa quán triệt đầy đủ mục đích, ý nghĩa của chế độ quỹ xí nghiệp, thường có khuynh hướng châm chước quá đáng trong khi xét duyệt.

Nhằm khắc phục các khó khăn, thiếu sót nói trên, phát huy hơn nữa tác dụng của chế độ quỹ xí nghiệp, để việc xét duyệt quỹ xí nghiệp năm 1962 được nghiêm túc và chặt chẽ, chỉ thị này nói rõ thêm một số điểm như sau:

I. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC TRÍCH LẬP QUỸ XÍ NGHIỆP

Các điều kiện đó đã được quy định trong thể lệ số 133-TTg ngày 04-04-1957 và các thông tư số 434-TTg ngày 05-12-1959, số 25-TTg ngày 18-01-1961, số 34-TTg ngày 14-03-1962 của Thủ tướng Chính phủ. Các điều kiện đó là: xí nghiệp đã bước đầu thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, hoàn thành kế hoạch sản xuất, kế hoạch lợi nhuận và kế hoạch nộp lợi nhuận (do hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch sản lượng, năng suất lao động, giá thành sản phẩm hoặc phí lưu thông), không phạm phải những khuyết điểm nghiêm trọng.

Đó là những điều kiện tối thiểu không được hạ thấp bất kỳ điều kiện nào; trường hợp đặc biệt xét cần châm chước phải được sự thỏa thuận của Bộ Tài chính (nếu là xí nghiệp trung ương) hoặc Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh (nếu là xí nghiệp địa phương).

Để việc vận dụng các điều kiện xét duyệt quỹ xí nghiệp được thống nhất, các ngành, các cấp cần dựa vào những điểm cụ thể sau đây:

1. Phải căn cứ vào kế hoạch được Nhà nước chính thức công nhận để xét duyệt quĩ xí nghiệp. Trường hợp có điều chỉnh kế hoạch thì căn cứ vào kế hoạch được chính thức điều chỉnh vào dịp Nhà nước điều chỉnh kế hoạch chung; trường hợp cá biệt phải điều chỉnh kế hoạch nhiều lần thì căn cứ vào kế hoạch điều chỉnh cuối cùng được Nhà nước công nhận.

2.  Chỉ được công nhận hoàn thành kế hoạch sản lượng (hoặc kế hoạch doanh số mua vào và bán ra, kế hoạch khối lượng phục vụ v.v…), kế hoạch giá thành, kế hoạch phí lưu thông, v.v… nếu xí nghiệp đồng thời cũng hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật chủ yếu của Nhà nước. Các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật này do các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh quy định cụ thể cho từng loại xí nghiệp.

Chỉ được công nhận hoàn thành kế hoạch lợi nhuận và kế hoạch nộp lợi nhuận nếu xí nghiệp đồng thời cũng hoàn thành các nhiệm vụ nộp thuế, nộp khấu hao cơ bản, nộp tiền biến gia tài sản cố định, hoàn vốn lưu động thừa và các khoản phải nộp khác cho Nhà nước đúng hạn, đúng chính sách, đúng chế độ.

3. Chỉ được công nhận hoàn thành vượt mức kế hoạch, nếu xí nghiệp hoàn thành vượt mức kế hoạch sản lượng, đồng thời cùng hoàn thành hay hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu thuộc về chất lượng (giá thành, năng suất lao động, v.v…).

Chỉ được công nhận hoàn thành vượt mức kế hoạch sản lượng nếu chất lượng mặt hàng tốt, sản phẩm tiêu thụ được, và nếu các định mức về sản phẩm tiêu thụ được, và nếu các định mức về sản phẩm dở dang, về bán thành phẩm tự chế, không vượt quá tỷ lệ tăng của sản lượng mà không có lý do chính đáng; ngoài ra, đối với những vật tư kỹ thuật do Nhà nước thống nhất quản lý và phân phối theo kế hoạch thì phải được Ủy ban Kế hoạch Nhà nước thỏa thuận mới được công nhận hoàn thành vượt mức kế hoạch sản lượng.

4. Không phạm phải những khuyết điểm nghiêm trọng, nghĩa là:

- Không vi phạm các chính sách chung và các chính sách quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước mà bị cấp trên hoặc cơ quan có thẩm quyền phê bình, cảnh cáo;

- Chấp hành nghiêm chỉnh hợp đồng kinh tế, không gây thiệt hại và ảnh hưởng xấu tới hoạt động của các xí nghiệp khác đến mức độ bị khiếu nại lên Hội đồng trọng tài và phải bồi thường.

- Không xảy ra lãng phí và tham ô nghiêm trọng;

- Không xảy ra tai nạn lao động nghiêm trọng.

II. MỨC KHỐNG CHẾ QUỸ XÍ NGHIỆP

Tổng mức tiền lương dùng làm căn cứ khống chế mức quỹ xí nghiệp được trích (mức tối đa cũng như tối thiểu) là tổng mức tiền lương kế hoạch chứ không phải là tổng mức tiền lương thực tế. Trường hợp có điều chỉnh kế hoạch sản xuất thì đồng thời cũng phải điều chỉnh kế hoạch tiền lương và căn cứ vào kế hoạch tiền lương điều chỉnh được Nhà nước công nhận để tính.

III. THỦ TỤC XÉT DUYỆT QUỸ XÍ NGHIỆP

Phải tôn trọng sự hướng dẫn trong thông tư số 34-TTg ngày 14 tháng 03 năm 1962 của Thủ tướng Chính phủ.

Hội đồng xét duyệt quỹ xí nghiệp chỉ được xét duyệt cho những xí nghiệp đã có đủ báo cáo quyết toán năm chính thức và đúng thời hạn; trường hợp quyết toán chậm, có lý do chính đáng, phải được sự đồng ý gia hạn (chỉ một lần) của Bộ Tài chính (nếu là xí nghiệp Trung ương) hoặc của cơ quan Tài chính địa phương (nếu là xí nghiệp địa phương).

Khi xét duyệt quỹ xí nghiệp, phải có Giám đốc xí nghiệp và Hội đồng xét duyệt quỹ xí nghiệp; phải tổ chức phân tích hoạt động kinh tế của xí nghiệp; phải phân tích các nhân tố khách quan và chủ quan đã ảnh hưởng đến mức độ và chất lượng hoàn thành kế hoạch; trên cơ sở ấy mà quyết định việc trích quỹ xí nghiệp cho hợp lý.

IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁC

1. Đối với các đơn vị hạch toán kinh tế toàn ngành, khi xét duyệt quỹ xí nghiệp, phải căn cứ đầy đủ các mặt kế hoạch chủ yếu của ngành; đồng thời, khi xét phân phối quỹ xí nghiệp cho mỗi xí nghiệp, phải theo chế độ chung của Nhà nước; tránh phân phối bình quân.

2. Đối với các xí nghiệp đã thi hành chế độ thu quốc doanh thì phải tính lại số lợi nhuận (coi như chưa thu quốc doanh) để có căn cứ xét duyệt quỹ xí nghiệp.

3. Đối với các xí nghiệp công tư hợp doanh thì áp dụng chế độ quỹ xí nghiệp như các xí nghiệp quốc doanh (kể cả số tức trả cho nhà tư sản).

4. Đối với những xí nghiệp mà trong năm 1961 đã nhận quỹ xí nghiệp cao hơn chế độ và chính sách của Nhà nước thì phải trừ vào quỹ xí nghiệp năm 1962; trường hợp cần chiếu cố thì cơ quan chủ quản xí nghiệp bàn với Bộ Tài chính (nếu là xí nghiệp trung ương) hoặc Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh (nếu là xí nghiệp địa phương).

Do công tác kế hoạch hóa của mỗi ngành có những đặc điểm nhất định, Thủ tướng Chính phủ giao cho các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, sau khi bàn bạc với Bộ Tài chính và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, ban hành các thông tư giải thích thêm.

Bộ Tài chính (và các cơ quan Tài chính địa phương) có nhiệm vụ theo dõi và góp ý kiến với các ngành trong việc xét duyệt quỹ xí nghiệp.

 

K.T.THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
 


 

Phạm Hùng