Hệ thống pháp luật

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 245/TTg

Hà Nội, ngày 22 tháng 4 năm 1996

 

CHỈ THỊ

VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN MỘT SỐ VIỆC CẤP BÁCH TRONG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT CỦA CÁC TỔ CHỨC TRONG NƯỚC ĐƯỢC NHÀ NƯỚC GIAO ĐẤT, CHO THUÊ ĐẤT

Hiện nay, công tác quản lý Nhà nước về đất đai còn nhiều yếu kém, việc quản lý, sử dụng đất đai của các tổ chức thiếu chặt chẽ, hiệu quả thấp, còn để xảy ra nhiều tiêu cực như: sử dụng đất tuỳ tiện, lấn chiếm, mua bán đất trái phép, thu chi tiền sử dụng đất sai nguyên tắc, tham ô trong quản lý đất đai v.v... đang là sự nhức nhối được toàn xã hội quan tâm và đòi hỏi phải giải quyết.

Để từng bước khắc phục những tồn tại trên, đưa việc quản lý, sử dụng đất đai vào nề nếp, đúng pháp luật, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị các ngành, các cấp, các tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, triển khai thực hiện ngay các việc cấp bách sau đây:

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp với Tổng cục Địa chính tiến hành kiểm tra, thống kê, đánh giá toàn bộ hiện trạng sử dụng đất của các tổ chức trên địa bàn, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 9 năm 1996.

Trường hợp tổ chức nào chưa có hồ sơ hoặc số liệu đo đạc để báo cáo thì phải tự đo đạc và kê khai diện tích đất đang sử dụng theo biểu mẫu thống nhất do Tổng cục Địa chính quy định. Các cơ quan quản lý đất đai tiến hành kiểm tra, chỉnh lý các trường hợp tự kê khai diện tích để hoàn chỉnh, tổng hợp thành báo cáo của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trình Thủ tướng Chính phủ. Tổ chức sử dụng đất kê khai sai sự thật, gây trở ngại cho việc kiểm tra thì người đứng đầu tổ chức phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

2- Tất cả các tổ chức trong nước đã được Nhà nước giao đất, nay thuộc đối tượng thuê đất được quy định trong Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất thì đều phải làm lại thủ tục thuê đất và nộp tiền thuê đất cho Nhà nước.

Tổng cục Địa chính, Bộ Tài chính có trách nhiệm quy định và hướng dẫn thủ tục về thuê đất và trả tiền thuê đất.

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức, chỉ đạo thực hiện và ký quyết định cho các tổ chức thuê đất trên địa bàn.

Các tổ chức thuộc đối tượng thuê đất phải hoàn thành thủ tục thuê đất trước ngày 30 tháng 9 năm 1996.

Các trường hợp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đã ra quyết định giao đất có thu tiền sử dụng đất và tiền sử dụng đất đã được thu nộp và sử dụng công khai trong cân đối ngân sách Nhà nước trong thời gian từ ngày ban hành Luật đất đai 1993 đến ngày ban hành Pháp lệnh về quyền nghĩa vụ các tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất (ngày 14 tháng 10 năm 1994) thì tạm thời chưa làm thủ tục về thuê đất nhưng phải làm thống kê chi tiết báo cáo Chính phủ. Tổng cục Địa chính hướng dẫn chi tiết về việc này.

3- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thủ trưởng các Bộ, ngành có trách nhiệm chỉ đạo các tổ chức trực thuộc xác định lại nhu cầu sử dụng đất của từng tổ chức phù hợp với nhiệm vụ và yêu cầu sản xuất kinh doanh hiện nay và xác nhận nhu cầu sử dụng đất của tổ chức đó.

a) Diện tích đất không được sử dụng hết thì phải trả lại Nhà nước. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ra quyết định thu hồi theo thẩm quyền hoặc báo cáo Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thu hồi.

b) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thu hồi diện tích đất của các tổ chức đã cho các tổ chức, cá nhân khác thuê lại hoặc mượn sử dụng vào mục đích khác; trường hợp tổ chức đang sử dụng đúng mục đích, không vi phạm quy hoạch thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xem xét cho làm thủ tục giao đất, cho thuê đất đúng quy định của pháp luật hiện hành.

c) Nghiêm cấm các tổ chức tự chia đất cho cán bộ, công nhân viên làm nhà ở.

Từ nay, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo chặt chẽ các cơ quan chức năng thường xuyên kiểm tra để ngăn chặn kịp thời và có biện pháp xử lý kiên quyết đối với tổ chức vẫn cố ý tự chia đất cho cán bộ, công nhân viên làm nhà ở.

Đối với các tổ chức đã vi phạm pháp luật về đất đai, tự chuyển nhượng cơ sở nhà đất, kho tàng, bến bãi tự chia đất cho cán bộ công nhân viên làm nhà ở v.v... thì phải kiểm tra lập biên bản từng trường hợp, thống kê phân loại mức độ vi phạm và đề xuất các biện pháp xử lý để báo cáo cấp uỷ Đảng và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xin ý kiến chỉ đạo, trường hợp quá thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.

d) Trường hợp tổ chức, cá nhân lấn chiếm đất trái phép, vi phạm quy hoạch sản xuất và quy hoạch dân cư thì ra quyết định thu hồi và có biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.

4- Thanh tra Nhà nước và Tổng cục Địa chính phối hợp với Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức kiểm tra, thanh tra điển hình, có trọng điểm việc sử dụng đất của một số cơ quan hành chính sự nghiệp và các Hội nghề nghiệp mà dư luận quần chúng có nhiều ý kiến để báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

5- Đất đai đã được Nhà nước giao cho tổ chức để sử dụng vào mục đích công cộng và lợi ích quốc gia phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng quy hoạch, tiết kiệm và có hiệu quả; nếu bị lấn chiếm thì tổ chức đó phải phối hợp với chính quyền địa phương sở tại kiên quyết giải toả để đưa vào sử dụng theo đúng quy hoạch. Nghiêm cấm các đơn vị thi công xây dựng các công trình công cộng chiếm dụng phần đất làm lán trại ở tạm và tập kết vật liệu để làm đất ở lâu dài.

6- Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hàng năm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để làm cơ sở cho việc giao đất và cho thuê đất đối với các tổ chức trong nước theo quy định của Luật đất đai.

Để đáp ứng nhu cầu nhà ở ngày càng tăng của toàn xã hội, từng bước cải thiện đời sống cho nhân dân, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải khẩn trương quy hoạch các khu dân cư, bảo đảm xây dựng đồng bộ từ cơ sở hạ tầng đến các công trình phúc lợi công cộng và dịch vụ xã hội. Giao cho các tổ chức có chức năng xây dựng (theo Nghị định số 60/CP và 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ) xây dựng các khu nhà ở để bán, cho thuê hoặc sau khi xây dựng xong cơ sở hạ tầng giao cho dân tự làm nhà ở theo đúng quy hoạch.

Trong quy hoạch phát triển các khu dân cư và đô thị mới phải bảo đảm tỷ lệ thích đáng diện tích đất cho cây xanh tạo cảnh quan và môi trường đô thị.

Trong quy hoạch phát triển các khu công nghiệp mới phải bố trí đất đai để di chuyển các xí nghiệp sản xuất công nghiệp có chất thải độc hại ra khỏi đô thị, trước mắt di chuyển gấp các xí nghiệp ở gần các khu dân cư để giảm ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ của nhân dân.

7- Các tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nêu trong Chỉ thị này bao gồm: Các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật, trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu, doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị, xã hội, doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, tổ chức kinh tế tập thể v.v... được giao đất không sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối.

Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, có trách nhiệm chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc Chỉ thị này.

Các tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất có trách nhiệm chấp hành nghiêm chỉnh Chỉ thị này.

Tổng cục Địa chính có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Thanh tra Nhà nước, các Bộ, ngành liên quan xây dựng kế hoạch, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra thực hiện Chỉ thị và báo cáo kết quả thực hiện lên Thủ tướng Chính phủ.

 

 

Trần Đức Lương

(Đã ký)

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Chỉ thị 245-TTg năm 1996 về tổ chức thực hiện một số việc cấp bách trong quản lý, sử dụng đất của các tổ chức trong nước được nhà nước giao đất, cho thuê đất do Thủ tướng Chính phủ ban hành

  • Số hiệu: 245/TTg
  • Loại văn bản: Chỉ thị
  • Ngày ban hành: 22/04/1996
  • Nơi ban hành: Thủ tướng Chính phủ
  • Người ký: Trần Đức Lương
  • Ngày công báo: 15/08/1996
  • Số công báo: Số 15
  • Ngày hiệu lực: 07/05/1996
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản