- 1Hiến pháp năm 1992
- 2Pháp lệnh dân quân tự vệ năm 1996
- 3Pháp lệnh Lực lượng Dự bị động viên năm 1996
- 4Nghị quyết 17-NQ/TW năm 2002 về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn do Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành
- 5Chỉ thị 55-CT/TW năm 1989 tăng cường lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ trong tình hình mới do Ban Bí thư ban hành
BAN BÍ THƯ TRUNG ƯƠNG ĐẢNG | ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM |
Số: 16-CT/TW | Hà Nội, ngày 05 tháng 10 năm 2002 |
Lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên là bộ phận trong lực lượng vũ trang của Đảng. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên là nội dung quan trọng trong đường lối quân sự của Đảng, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị.
Những năm qua, thực hiện Chỉ thị số 55-CT/TW, ngày 22/9/1989 của Ban Bí thư (khóa VI), tổ chức đảng và chính quyền các cấp đã có chuyển biến tích cực trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên, góp phần tăng cường hiệu lực quản lý của chính quyền, làm trong sạch địa bàn, đảm bảo an ninh chính trị, an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.
Tuy nhiên, cấp ủy đảng, chính quyền ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị, chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, vị trí chiến lược của hai lực lượng này và chưa đề cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên trong tình hình mới, gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên chưa đồng bộ, còn bất cập so với thực tiễn. Việc bảo đảm ngân sách thực hiện chế độ, chính sách đối với dân quân tự vệ, quân nhân dự bị còn hạn chế. Nhìn chung chất lượng của lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, hiệu quả hoạt động chưa cao nhất là khi xảy ra tình hình phức tạp.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng tổng hợp của dân quân tự vệ và quân nhân dự bị đáp ứng yêu cầu về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, góp phần nâng cao hiệu quả của hệ thông chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX), Ban Bí thư yêu cầu cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành thực hiện tốt một số nội dung chính sau đây:
Cấp ủy cơ sở phải có Nghị quyết lãnh đạo chuyên đề về công tác này, đề ra biện pháp thiết thực, tổ chức triển khai và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện; lấy kết quả lãnh đạo xây dựng lực lượng để đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ hằng năm của tổ chức đảng. Đề cao vai trò nòng cốt của đảng viên trong dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên; đồng thời làm tốt công tác phát triển đảng viên trong các lực lượng này.
Các tỉnh ủy, thành ủy và tổ chức Đảng trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tổ chức thực hiện, kiểm tra việc chấp hành Chỉ thị này; hằng năm báo cáo kết quả về Ban Bí thư (qua Đảng ủy Quân sự Trung ương). Chỉ thị này được phổ biến, quán triệt đến chi bộ cơ sở.
- Căn căn vào Chỉ thị số 16/CT/TW ngày 05 tháng 10 năm 2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ (DQTV) và lực lượng dự bị động viên (DBĐV) trong tình hình mới".
Được sự ủy quyền của Ban Bí thư, Thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương hướng dẫn thực hiện như sau:
1. Nhằm triển khai thực hiện thống nhất và đạt được hiệu quả cao ở tất cả các tổ chức đảng trong toàn quốc.
2. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm, năng lực của cấp ủy đảng và chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có quả về xây dựng, hoạt động của lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong hình mới.
3. Cấp ủy các cấp phải xác định đây là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác lãnh đạo. Vì vậy cần có kế hoạch lãnh đạo và chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư một cách nghiêm túc, đồng bộ, kịp thời và có hiệu quả.
1. Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo.
a) Các Tỉnh ủy, Thành ủy, Ban cán sự Đảng, Đảng Đoàn, Đảng ủy trực thuộc Trung ương, Đảng ủy các quân khu, căn cứ Chỉ thị của Ban Bí thư và tình hình xây dựng, hoạt động của lực lượng DQTV, lực lượng DBĐV trong thời gian qua để ra Nghị quyết chuyên đề về lãnh đạo xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của 2 lực lượng này.
b) Đảng ủy các quân khu chỉ đạo Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, cơ quan quân sự địa phương các cấp, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình tham mưu, giúp Đảng ủy quân khu, cấp ủy địa phương cùng cấp, xây dựng kế hoạch và hướng dẫn triển khai thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư, nghị quyết chuyên đề của đảng ủy Quân khu, cấp uỷ đảng địa phương các cấp.
c) Ban chỉ huy các đơn vị tự vệ, cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm công tác quân sự ở các Bộ, ngành Trung ương và các cơ quan, đơn vị, xí nghiệp, doanh nghiệp…tham mưu cho cấp ủy, Thủ trưởng cơ quan, giám đốc các doanh nghiệp có văn bản lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện chỉ thị nêu trên.
d) Hằng năm và từng thời kỳ, cấp ủy các cấp tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng hai lực lượng này kịp thời có chủ trương, biện pháp khắc phục những hạn chế, khuyết điểm.
2.1. Về xây dựng chi bộ, tổ đảng quân sự ở xã, phường, thị trấn.
a) Để nâng cao tỷ lệ lãnh đạo trong lực lượng DQTV, các địa phương cần quan tâm lựa chọn những đảng viên trong độ tuổi DQTV có đủ điều kiện đưa vào lực lượng DQTV. Tích cực phát hiện và bồi dưỡng đoàn viên ưu tú trong lực lượng DQTV và những quân nhân dự bị để phát triển đảng viên. Phấn đấu đến năm 2005 các địa phương đạt tỷ lệ đảng viên trong DQTV từ 10% trở lên và từng bước nâng dần tỷ lệ lãnh đạo trong các đơn vị DBĐV.
b) Căn cứ vào hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương, Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam hướng dẫn cơ quan chính trị các cấp phối hợp với cấp ủy các địa phương tiếp tục nghiên cứu việc xây dựng chi bộ, tổ đảng quân sự xã, phường, thị trấn, cụ thể:
+ Đối với những nơi đã xây dựng chi bộ, tổ đảng quân sự hoặc chi bộ trung đội dân quân cơ động, cần tiếp tục nghiên cứu mô hình, chức năng nhiệm vụ, phương thức lãnh đạo, hiệu quả hoạt động, rút kinh nghiệm để chỉ dạo hoạt động có hiệu quả hơn.
+ Đối với những nơi chưa có tổ chức chi bộ, tổ đảng quân sự hoặc chi bộ trung đội dân quân cơ động thì cần nghiên cứu để tổ chức nhưng phải có bước đi thích hợp, tiến hành làm điểm, rút kinh nghiệm, chỉ đạo nhân rộng
2.2. Về kiện toàn biên chế cán bộ.
a) Đối với BCHQS xã, phường, thị trấn, đơn vị tự vệ.
+ Cơ quan quân sự các cấp tham mưu cho cấp ủy v à chính quyền thường xuyên kiện toàn Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn đủ 3 đồng chí: Chỉ huy trưởng, Chính trị viên do bí thư Đảng ủy (chi bộ) đảm nhiệm; Chỉ huy phó chuyên trách. Chỉ huy trưởng, Chỉ huy phó phải là những đồng chí có phẩm chất chính trị tốt, đã qua rèn luyện trong Quân đội, trong lao động sản xuất; Chỉ huy trưởng nhất thiết phải là đảng v iên Đảng cộng sản Việt Nam, có đủ điều kiện tham gia cấp ủy, thành viên Ủy ban nhân dân cùng cấp. Ở những nơi trọng điểm có thể bố trí thêm 1 đồng chí Chỉ huy phó kiêm nhiệm để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm v ụ, chấm dứt tình trạng cán bộ quân sự xã, phường, thị trấn làm hợp đồng.
+ Thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 5 BCHTW (khóa IX) về đổi mới, nâng cao hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường và thị trấn; Các địa phương cần có quy hoạch cán bộ quân sự, lựa chọn nguồn đào tạo để từ năm 2004 trở đi thực hiện đào tạo cán bộ quân sự theo chương trình chuấn quốc gia, chú trọng tạo nguồn từ những quân nhân đã hoặc đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.
+ Trong đào tạo bồi dưỡng cần chú ý đến cán bộ tại chỗ, cán bộ là người dân tộc thiểu số, tạo nguồn cán bộ cho cả kế cận và kế tiếp, tạo được tính ổn định, không bị hẫng hụt.
b) Đối với cán bộ đơn vị DBĐV
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ đơn vị DBĐV đủ về số lượng, đồng bộ về cơ bản, có biện pháp quản lý, đào tạo, bồi dưỡng từng bước nâng tỷ lệ xếp đúng chuyên nghiệp quân sự đáp ứng yêu cầu biên chế.
+ Cơ quan, đơn vị các cấp phải xây dựng quy hoạch và kế hoạch cụ thể bồi dưỡng nguồn để bổ sung cho đội ngũ sĩ quan dự bị, phấn đấu đến năm 2005 cơ bản khắc phục được sự mất cân đối về nhóm ngành cán bộ, cơ cấu sắp xếp vào các đơn vị DBĐV.
+ Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng cán bộ đơn vị DBĐV, xây dựng đội ngũ cán bộ đơn vị DBĐV có phẩm chất chính trị, trình độ, có năng lực công tác, đủ sức lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu động viên khi cần thiết.
a) Đối với DQTV.
+ Cấp ủy, chính quyền địa phương, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, giám đốc các doanh nghiệp… thường xuyên chỉ đạo Ban chỉ huy quân sự thực hiện có nề nếp việc đăng ký công dân trong độ tuổi DQTV, thường xuyên rà soát, củng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng chính trị lực lượng DQTV, có số lượng hợp lý, tổ chức biên chế chặt chẽ, thực hiện ở đâu có dân, có tổ chức đảng và đảng viên ở đó phải tổ chức DQTV. Đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng DQTV ở các vùng trọng điểm, địa bàn chiến lược như Tây nguyên, Tây bắc, Tây Nam bộ và các địa bàn có những vấn đề phức tạp khác.
+ Việc tuyển chọn, kết nạp công dân vào lực lượng DQTV phải thực hiện theo nguyên tắc cấp ủy lãnh đạo, chính quyền chỉ đạo điều hành, cơ quan quân sự tham mưu. Quá trình tuyển chọn phải xem xét kỹ, nhất là về phẩm chất chính trị, độ tin cậy. Nhất thiết không kết nạp vào DQTV những người chưa nắm chắc nhân thân, lập trường tư tưởng không vững vàng, độ tin cậy không cao.
+ Cơ quan quân sự địa phương các cấp chỉ đạo chặt chẽ các doanh nghiệp đứng chân trên địa bàn tiếp tục củng cố, xây dựng lực lượng tự vệ, theo Pháp lệnh về DQTV; nghiên cứu, từng bước xây dựng phát triển lực lượng tự vệ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trước hết là đối với các doanh nghiệp đã có tổ chức đảng, đảng viên.
b) Đối với DBĐV
+ Thực hiện tốt việc đăng ký và quản lý quân nhân dự bị. Đăng ký triệt để về đối tượng, số lượng, chính xác về chất lượng; quản lý được di, biến động quân dự bị.
+ Hoàn thành việc sắp xếp biên chế, tổ chức các đơn vị DBĐV, quản lý chặt chẽ, có nền nếp tại cơ sở. Tập trung xây dựng toàn diện cho các đơn vị dự bị động viên có nhiệm vụ sẵn sàng động viên trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao, các đơn vị làm nhiệm vụ A2, nhất là các đơn vị ở địa bàn trọng điểm.
+ Thực hiện phân cấp cụ thể việc bảo đảm hậu cần, vũ khí trang bị kỹ thuật, tài chính… và dự trữ cho nhiệm vụ động viên.
+ Thường xuyên rà soát, kịp thời điều chỉnh kế hoạch xây dựng, huy động và tiếp nhận lực lượng DBĐV phù hợp với yêu cầu tình hình mới.
+ Chuẩn bị chu đáo mọi mặt, bảo đảm cho lực lượng DBĐV luôn đáp ứng yêu cầu sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu đối phó với các tình huống trong khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố và trên từng hướng chiến lược, kể cả tình huống bạo loạn có can thiệp vũ trang từ bên ngoài và chiến tranh xâm lược quy mô lớn.
2.4. Giáo dục chính trị và pháp luật.
a) Tổng Cục Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các cơ quan chức năng đưa nội dung chỉ thị của Ban Bí thư, Pháp lệnh về DQTV và Pháp lệnh về lực lượng DBĐV vào nội dung bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ, công chức các cấp tại học viện quốc phòng, trường Quân sự quân khu, trường quân sự tỉnh, thành phố.
b) Tổng Cục Chính trị chủ trì phối hợp với Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu đổi mới nội dung, chương trình; phương pháp giáo dục chính trị và pháp luật cho lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV theo hướng: sát đối tượng, dễ hiểu, dễ tiếp thu. Nội dung cần đi vào: Truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước, yêu chế độ XHCN; mục tiêu lý tưởng của Đảng; con đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn; Quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược, nhiệm vụ củng cố quốc phòng - an ninh, chống "Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; công tác quốc phòng địa phương, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Một số nội dung cơ bản của Hiến pháp, Pháp luật, Pháp lệnh về DQTV và Pháp lệnh về lực lượng DBĐV; nội dung, phương pháp tiến hành vận động quần chúng của lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV…
c) Các đơn vị và cơ quan quân sự các cấp thực hiện nghiêm túc nội dung, chương trình giáo dục chính trị cho quân nhân trước khi xuất ngũ, chương trình giáo dục hằng năm cho DQTV, quân nhân dự bị bằng các hình thức phù hợp. Chú trọng giáo dục và quản lý tư tưởng, đảm bảo cho DQTV, quân nhân dự bị có bản lĩnh chính trị vững vàng, khi có lệnh yên tâm, phấn khởi thực hiện nhiệm vụ.
2.5. - Huấn luyện v à hoạt động chiến đấu của lực lượng DQTV v à lực lượng DBĐV
a) Về công tác huấn luyện
* Đối với lực lượng DQTV:
+ Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu đổi mới nội dung, chương trình, thời gian huấn luyện cho phù hợp với từng đối tượng, từng vùng, miền và yêu cầu, nhiệm vụ của địa phương, cơ sở cả trước mắt và lâu dài, chú trọng nội dung thực hành xử lý các tình huống "Diễn biến hòa bình”, Bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
+ Trong huấn luyện, các địa phương cần năm vững phương châm "cơ bản, thiết thực, chất lượng”. Coi trọng huấn luyện cán bộ các cấp, huấn luyện toàn diện các lực lượng DQTV nhưng chú trọng lực lượng cơ động, binh chủng, lực lượng làm nhiệm vụ A2. Đồng thời chú trọng làm tốt diễn tập vận hành cơ chế "Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự làm tham mưu”, sát thực tiễn của từng địa phương, bảo đảm khi có tình huống xảy ra xử lý kịp thời, hiệu quả.
* Đối với lực lượng DBĐV
+ Để nâng cao chất lượng toàn diện cho lực lượng DBĐV phải tiếp tục nghiên cứu, cải tiến nội dung, phương pháp tổ chức huấn luyện quân nhân dự bị, huấn luyện phân đội DBĐV, tập trung chủ yếu là đội ngũ sĩ quan, chuyên môn kỹ thuật, huấn luyện tạo nguồn và các đối tượng nòng cốt khác trong đơn vị DBĐV. Coi trọng huấn luyện phân đội đối với các đơn vị DBĐV có đủ điều kiện , đặc biệt coi trọng huấn luyện phân đội DBĐV để sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ A2 và nhiệm vụ động viên ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao.
+ Trong những năm tới cần phấn đấu nâng dần số quân nhân dự bị được tập trung huấn luyện hằng năm để nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật và khả năng chiến đấu hiệp đồng.
+ Chú trọng đầu tư từng bước xây dựng trung tâm huấn luyện quân nhân dự bị tại từng địa phương, đảm bảo thao trường, học cụ, nơi ăn, ở, sinh hoạt, học tập hợp lý.
b) Về hoạt động
* Đối với lực lượng DQTV
+ DQTV phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt, là công cụ chủ yếu bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân ở cơ sở trong mọi tình huống. Nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng DQTV, thường xuyên tổ chức tuần tra, canh gác bảo vệ các mục tiêu quan trọng của địa phương. Cùng với các lực lượng khác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tham gia vân động quần chúng phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai.
+ Khi có tình huống xảy ra phải chủ động phối hợp chặt chẽ với công an và các lực lượng khác bảo vệ an toàn trụ sở của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, cán bộ, nhân dân và các mục tiêu trọng yếu khác như: đài phát thanh, truyền hình, bưu điện, trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của địa phương.
* Đối với lực lượng DBĐV
+ Đơn vị DBĐV được sắp xếp đủ biên chế, quản lý huấn luyện tốt, thực hiện nghiêm chế độ sinh hoạt theo quy định, sẵn sàng động viên tăng cường cho lực lượng thường trực của quân đội, khi có nhu cầu chiến đấu để bảo vệ địa phương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ mà chưa đến mức phải động viên cục bộ. Kịp thời ứng phó với các tình huống "Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ có vũ trang hoặc xâm phạm chủ quyền lãnh thổ ngay trên từng địa phương.
+ Sẵn sàng động viên bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội chống chiến tranh xâm lược quy mô lớn.
a) Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ đạo cơ quan chính trị các quân khu, cơ quan quân sự các địa phương, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng thường xuyên làm tốt tuyên truyền vận động nhân dân tham gia xây dựng lực lượng DQTV và các lực lượng DBĐV.
b) Cơ quan quân sự các địa phương phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo tỉnh ủy, Thành ủy, các báo đài, báo địa phương tuyên truyền phổ biến sâu rộng trong toàn dân pháp lệnh về DQTV và Pháp lệnh về lực lượng DBĐV, kịp thời biểu dương gương người tốt, việc tốt của lực lượng DBĐV và lực lượng DBĐV. Tăng cường nội dung và thời lượng phát sóng về công tác quốc phòng, quân sự trên đài phát thanh và truyền hình địa phương.
4. Bảo đảm ngân sách và thực hiện chế độ, chính sách đối với lực lượng DQTV và DBĐV.
a) Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng cơ quan, đơn vị cần quan tâm đầy đủ, đảm bảo kinh phí, ngân sách hằng năm cho công tác xây dựng, huấn luyện, hoạt động và thực hiện chế độ, chính sách với lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV theo đúng quy định của Pháp lệnh về DQTV và Pháp lệnh về lực lượng DBĐV.
b) Hằng năm các quân khu chỉ đạo các địa phương xây dựng dự toán ngân sách chi cho công tác quốc phòng địa phương báo cáo Bộ theo quy định tại Chỉ thị số 80/2002/CT- BQP ngày 14/6/2002 của Bộ Quốc phòng. Trong dự toán cần tính đủ, tính đúng, chú ý các vùng sâu, vùng xa, những nơi kinh tế kém phát triển, đời sống nhân dân khó khăn, địa phương thu không đủ chi, tránh bình quân chủ nghĩa.
III. Biện pháp và thời gian thực hiện
1. Biện pháp:
a) Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy phát huy hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp đối với lực lượng DQTV v à lực lượng DBĐV; thường xuyên năm chắc tình hình tổ chức biên chế, trang bị v ũ khí, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ DQTV v à DBĐV. Gắn xây dựng DQTV, DBĐV v ới xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện củng cố kiện toàn BCHQS cơ sở v ới đổi mới nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn theo Nghị quyết TW 5 khóa IX.
b) Thường xuyên và định kỳ kiểm tra, đôn đốc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện và hoạt động bảo đảm chế độ, chính sách cho lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV.
c) Bộ Quốc phòng nghiên cứu trình Chính phủ và Ủy Ban thường vụ Quốc hội sửa đổi Pháp lệnh về DQTV, Pháp lệnh về lực lượng DBĐV cho phù hợp với tình hình mới.
d) Định kỳ hằng quý, 6 tháng và 1 năm tập thể cấp ủy nghe Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn và đơn vị tự vệ báo cáo kết quả xây dựng và hoạt động của lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV để có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời.
đ) Căn cứ Chỉ thị 16/CT-TW và hướng dẫn này các cấp cần cụ thể hóa để tổ chức thực hiện sát với từng cơ quan, đơn vị, địa phương.
2. Thời gian thực hiện
a) Từ này cho đến hết quý I năm 2003, các cấp, các ngành phải tổ chức quán triệt xong Chỉ thị.
b) Quý II năm 2003 các cấp ủy có Nghị quyết chuyên đề về lãnh đạo xây dựng lực lượng DQTV và lực lượng DBĐV.
c) Từ cuối quý II năm 2003 trở đi tất cả các cấp, các ngành triển khai thực hiện các nội dung quy định trong Chỉ thị này.
d) Hằng năm các địa phương báo cáo kết quả thực hiện Chỉ thị về Ban Bí thư (qua Đảng ủy quân sự Trung ương) vào ngày 15 tháng 11.
| T.M THƯỜNG VỤ ĐẢNG ỦY QUÂN SỰ TW |
- 1Hiến pháp năm 1992
- 2Pháp lệnh dân quân tự vệ năm 1996
- 3Pháp lệnh Lực lượng Dự bị động viên năm 1996
- 4Nghị quyết 17-NQ/TW năm 2002 về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn do Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành
- 5Chỉ thị 55-CT/TW năm 1989 tăng cường lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ trong tình hình mới do Ban Bí thư ban hành
- 6Hướng dẫn 1612/HD-CT năm 2016 khen thưởng Tổng kết nhiệm vụ xây dựng lực lượng dự bị động viên giai đoạn 1996-2016 do Tổng cục Chính trị ban hành
Chỉ thị 16-CT/TW năm 2002 tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên trong hình mới do Ban Bí thư ban hành
- Số hiệu: 16-CT/TW
- Loại văn bản: Chỉ thị
- Ngày ban hành: 05/10/2002
- Nơi ban hành: Ban Bí thư
- Người ký: Phạm Văn Trà
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 05/10/2002
- Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực