TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN TỈNH BÌNH DƢƠNG | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc |
Bản án số: 96/2024/HS-ST Ngày: 06 – 5 – 2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Bà Lê Thị Thu.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Lê Văn Công;
Bà Trần Ngọc Phƣơng.
Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Hoàng Tấn, Thƣ ký Toà án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dƣơng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa: Ông Trần Xuân Sỹ - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dƣơng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/2024/TLST- HS ngày 04 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đƣa vụ án ra xét xử số 78/2024/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2024/HSST-QĐ ngày 12 ngày 4 tháng 2024 đối với bị cáo:
Trần Thanh S, sinh năm 1993 tại tỉnh Kiên Giang; nơi thƣờng trú: 92/1 N, khu phố 7, phƣờng R, thành phố R, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Nghĩa H (chết) và bà Lê Thị D (chết); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Lệnh cấm đi khỏi nơi cƣ trú. Vắng mặt, có yêu cầu xét xử vắng mặt.
Người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng: Bà Ngô Gia Ý N. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án đƣợc tóm tắt N sau:
Vào khoảng tháng 8 năm 2020, Giấy chứng minh nhân dân của Trần Thanh S bị hƣ hỏng, toàn bộ thông tin và hình ảnh của S trên Giấy chứng minh nhân dân đều bị mờ và lem màu không nhìn đƣợc. Do có nhu cầu làm hồ sơ xin việc, nên khoảng
tháng 11 năm 2020, S đến cửa hàng photocopy tại địa chỉ: Xã Phƣớc An, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, cung cấp thông tin cá nhân và ảnh 3x4 của S, nhờ một ngƣời nam thanh niên là chủ cửa hàng làm Giấy chứng minh nhân dân giả cho S thì ngƣời này đồng ý. Sau 02 ngày, S đến cửa hàng photocopy tại địa chỉ trên nhận Giấy chứng minh nhân dân đã đặt làm giả trƣớc đó và thanh toán cho chủ cửa hàng số tiền
300.000 đồng.
Đến khoảng 13 giờ 30 phút ngày 14/3/2023, S đến Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần Sài Gòn (SCB) – Phòng giao dịch Thuận An, địa chỉ: 25 Cách Mạng Tháng Tám, khu phố Long Thới, phƣờng Lái Thiêu, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dƣơng để thực hiện việc thay đổi số điện thoại cập nhật mới tài khoản ngân hàng của S. Lúc này, nhân viên của Ngân hàng là bà Ngô Gia Ý N yêu cầu S xuất trình Giấy chứng minh nhân dân để thực hiện công việc cập nhật thông tin thì S đƣa 01 Chứng minh nhân dân của S cho bà N. Qua kiểm tra, nghi ngờ Chứng minh nhân dân của S có dấu hiệu làm giả nên bà N trình báo sự việc đến Công an phƣờng Lái Thiêu đến đƣa S cùng tang vật về trụ sở để làm việc. Tại Cơ quan Công an, S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Kết luận giám định số 236/KL-KTHS (TL) ngày 08/6/2023, kết luận: 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân số 371601570 mang tên “Trần Thanh S”, sinh năm 1993, HKTT: 92/1 Nguyễn Bình, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, đề ngày 13/7/2015 là giả”.
Cáo trạng số 64/CT-VKS -TA ngày 02/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố bị cáo Trần Thanh S về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa:
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dƣơng vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 341, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Đối với ngƣời đã làm giả Giấy chứng minh nhân dân cho bị cáo Trần Thanh S, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã tiến hành điều tra cho bị cáo S đi xác định địa điểm Nng S không xác định đƣợc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An tiếp tục xác minh xử lý sau.
Đối với 01 Giấy chứng minh nhân dân số 371601570 mang tên “Trần Thanh S”, sinh năm 1993, HKTT: 92/1 Nguyễn Bình, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, đề ngày 13/7/2015, quá trình điều tra xác định là tài liệu giả nên cần lƣu trữ trong hồ sơ vụ án.
Quá trình tố tụng, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thống nhất tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng, không có ý kiến tranh luận. Theo đơn xin vắng mặt, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, trở thành công dân tốt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đƣợc tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định N sau:
Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong suốt quá trình tố tụng bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng là hợp pháp.
Về sự vắng mặt của bị cáo Trần Thanh S: Sau khi nhận Quyết định đƣa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa của Toà án, bị cáo đã có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Xét thấy, đây là sự tự nguyện của bị cáo, việc vắng mặt của bị cáo, không gây trở ngại cho việc xét xử và phù hợp với quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan Điều tra và trong suốt quá trình tố tụng phù hợp các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của ngƣời làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, có đủ cơ sở kết luận:
Vào năm 2020, Trần Thanh S đã có hành vi cung cấp thông tin cá nhân và hình ảnh cho đối tƣợng đặt làm giả 01 Giấy chứng minh nhân dân số 371601570 mang tên “Trần Thanh S”, sinh năm 1993. Đến khoảng 13 giờ 30 phút ngày 14/3/2023, Trần Thanh S đến Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần Sài Gòn, Phòng giao dịch Thuận An, địa chỉ: 25 Cách Mạng Tháng Tám, khu phố Long Thới, phƣờng Lái Thiêu, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dƣơng cung cấp Giấy chứng minh nhân dân nêu trên cho nhân viên ngân hàng để thực hiện việc thay đổi số điện thoại cập nhật mới tài khoản ngân hàng thì bị phát hiện. Theo Kết luận giám định số 236/KL-KTHS (TL) ngày 08/6/2023, kết luận: 01 (một) Giấy chứng minh nhân dân số 371601570 mang tên “Trần Thanh S”, sinh năm 1993, HKTT: 92/1 Nguyễn Bình, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, đề ngày 13/7/2015 là giả”. Hành vi của bị cáo cung cấp thông tin để nhờ ngƣời khác làm giả giấy tờ của cơ quan tổ chức đã đủ yếu tố cấu thành tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố bị cáo về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan tổ chức” là chƣa phù hợp. Trong vụ án này, bị cáo nhờ ngƣời khác làm giả giấy tờ của cơ quan tổ chức, bị cáo không trực tiếp làm và cũng không biết ngƣời làm giả, hành vi của bị cáo sử dụng giấy tờ giả để thay đổi số điện thoại cập nhật mới tài khoản ngân hàng, hành vi này cấu thành tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự”. Căn cứ khoản 2 Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử, xét xử bị cáo về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại
khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2017). Mức đề nghị hình phạt của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với hành vi bị cáo đã thực hiện.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là ngƣời có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức đƣợc việc làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức là vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, xâm phạm đến sự hoạt động bình thƣờng và uy tín của các Cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức. Hành vi đó còn gây mất trật tự, trị an tại địa phƣơng. Do đó, cần xử phạt bị cáo với mức án tƣơng xứng nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trƣờng hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có trình độ học vấn thấp nhận thức hạn chế. Do đó, không cần thiết áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mà áp dụng hình phạt chính là phạt tiền đối với bị cáo theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đủ răn đe giáo dục bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trƣờng hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Đối với đối tƣợng làm giả cho bị cáo, hiện chƣa xác định đƣợc nhân thân lai lịch, khi nào xác minh đƣợc sẽ xử lý sau.
Lời đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.
Đối với lời đề nghị về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” đối với bị cáo là chƣa phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát Điều tra thu giữ: Giấy chứng minh nhân dân số 371601570 mang tên “Trần Thanh S”, sinh năm 1993, HKTT: 92/1 Nguyễn Bình, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, đề ngày 13/7/2015 là giả là vật chứng trong vụ án nên tiếp tục lƣu hồ sơ vụ án.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ:
Khoản 1 Điều 341; Điều 35, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Điều 136; các điểm c, d Điều khoản 2 Điều 290; khoản 2 Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố bị cáo Trần Thanh S phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Xử phạt bị cáo Trần Thanh S 40.000.000 đồng (bốn mƣơi triệu đồng).
Về án phí:
Buộc bị cáo Trần Thanh S phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo:
Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đƣợc Bản án hoặc Bản án đƣợc niêm yết công khai theo quy định của pháp luật./.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thu |
HỘI THẨM NHÂN DÂN | THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Thu |
Bản án số 96/2024/HS-ST ngày 06/05/2024 của TAND TX. Thuận An, tỉnh Bình Dương
- Số bản án: 96/2024/HS-ST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 06/05/2024
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND TX. Thuận An, tỉnh Bình Dương
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Bị cáo làm giả căn cước công dân