Bản án số 91/2019/HNGĐ-ST ngày 27/12/2019 của TAND tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Số bản án: 91/2019/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 27/12/2019
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: chị Dương Thị H trình bày:
- Về quan hệ vợ chồng: Tôi và anh Dương Văn H1 chung sống với nhau trên cơ sở có sự tìm hiểu, tự nguyện, tổ chức lễ cưới theo phong tục và đăng ký kết hôn ngày 25/7/2005 tại UBND xã Y, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Tuy nhiên hiện nay giấy đăng ký kết hôn bị thất lạc nên không cung cấp cho Tòa án được. Trong thời gian sinh sống vợ chồng không có tình cảm, không hạnh phúc. Nguyên nhân do anh H1 không chăm lo làm ăn vun đắp hạnh phúc gia đình và nghiện ma túy nặng. Tôi và gia đình đã khuyên ngăn, động viên nhiều lần nhưng không được. Năm 2010 tôi đi xuất khẩu lao động, anh H1 ở nhà không thay đổi vẫn nghiện ma túy, năm 2011 anh H1 bị bắt và xử phạt 02 năm 10 tháng tù về tội tàng trữ chất ma túy. Sau khi anh H1 ra tù tôi có gửi tiền về để làm nhà với hy vọng anh sẽ thay đổi. Tuy nhiên anh H1 không tu chí làm ăn còn chơi lại ma túy. Các năm 2015 đến 2017 tôi về thăm gia đình anh H1 đều vòi vĩnh tiền, tôi không cho thì anh tỏ thái độ hung dữ, đe dọa. Nay xác định tình cảm không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Dương Văn H1.
- Về con chung : Vợ chồng có có 01con chung là cháu Dương Thị Thanh H2, sinh ngày 21/7/2006, hiện nay cháu đang ở cùng với ông bà nội.Do anh H1 không đủ tư cách, kinh tế để nuôi connên sau khi ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung. Tôi không yêu cầu anh H1 phải cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung: Vợ chồng có một ngôi nhà 2 tầng, tôi không lấy tài sản, phần tài sản tôi xin nhường lại cho cháu Dương Thị Thanh H2 khi cháu có đủ thẩm quyền để thừa hưởng. Tôi không đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản chung, công nợ chung trong vụ án này.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 91/2019/HNGĐ-ST ngày 27/12/2019 của TAND tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Số bản án: 91/2019/HNGĐ-ST
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 27/12/2019
Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Giang
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: chị Dương Thị H trình bày:
- Về quan hệ vợ chồng: Tôi và anh Dương Văn H1 chung sống với nhau trên cơ sở có sự tìm hiểu, tự nguyện, tổ chức lễ cưới theo phong tục và đăng ký kết hôn ngày 25/7/2005 tại UBND xã Y, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Tuy nhiên hiện nay giấy đăng ký kết hôn bị thất lạc nên không cung cấp cho Tòa án được. Trong thời gian sinh sống vợ chồng không có tình cảm, không hạnh phúc. Nguyên nhân do anh H1 không chăm lo làm ăn vun đắp hạnh phúc gia đình và nghiện ma túy nặng. Tôi và gia đình đã khuyên ngăn, động viên nhiều lần nhưng không được. Năm 2010 tôi đi xuất khẩu lao động, anh H1 ở nhà không thay đổi vẫn nghiện ma túy, năm 2011 anh H1 bị bắt và xử phạt 02 năm 10 tháng tù về tội tàng trữ chất ma túy. Sau khi anh H1 ra tù tôi có gửi tiền về để làm nhà với hy vọng anh sẽ thay đổi. Tuy nhiên anh H1 không tu chí làm ăn còn chơi lại ma túy. Các năm 2015 đến 2017 tôi về thăm gia đình anh H1 đều vòi vĩnh tiền, tôi không cho thì anh tỏ thái độ hung dữ, đe dọa. Nay xác định tình cảm không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Dương Văn H1.
- Về con chung : Vợ chồng có có 01con chung là cháu Dương Thị Thanh H2, sinh ngày 21/7/2006, hiện nay cháu đang ở cùng với ông bà nội.Do anh H1 không đủ tư cách, kinh tế để nuôi connên sau khi ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung. Tôi không yêu cầu anh H1 phải cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung: Vợ chồng có một ngôi nhà 2 tầng, tôi không lấy tài sản, phần tài sản tôi xin nhường lại cho cháu Dương Thị Thanh H2 khi cháu có đủ thẩm quyền để thừa hưởng. Tôi không đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản chung, công nợ chung trong vụ án này.