Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 88/2021/HSPT của TAND tỉnh Bắc Giang
- Số bản án: 88/2021/HSPT
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Ngày ban hành: 28/07/2021
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Giang
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị K1 xác định có nhận của chị T4 số tiền 145.000.000 đồng, chị P1 số tiền 110.000.000 đồng, chị Y1 số tiền 142.000.000 đồng thông qua người thân của các chị hoặc nhận qua chuyển khoản tại Ngân hàng, thời gian nhận tiền từ khoảng cuối tháng 12/2016 và tháng 01/2017. Tổng số tiền bị cáo nhận của các chị T4, P1 và Y1 là 397.000.000 đồng (Ba trăm chín mươi bảy triệu đồng chẵn). Các chị Y1, T4, P1 đều xác định đưa tiền cho bị cáo mục đích để lo xin vào biên chế Nhà nước, nhưng khi chuyển giao tiền thì các chị không yêu cầu bị cáo phải làm giấy biên nhận hoặc văn bản, giấy tờ gì. Do bị cáo không xin được việc làm mà không trả lại tiền nên đến tháng 8/2018 các chị T4, P1, Y1 làm sẵn giấy biên nhận, giấy nhận tiền rồi yêu cầu bị cáo tự viết thêm một số nội dung và ký tên, theo các giấy tờ nêu trên thể hiện thì bị cáo nhận tiền là ngày 26/8/2018. Tuy nhiên bị cáo và các chị T4, P1 và Y1 đều thống nhất xác định số tiền đã được chuyển giao từ cuối tháng 12/2016 và tháng 01/2017. Các giấy tờ bị cáo ký nhận tiền với chị T4, chị P1, chị Y1 đều có nội dung “lo xin việc” hay “để xin việc”. Mặc dù bị cáo cho rằng những nội dung “lo xin việc” hay “để xin việc” là do các bị hại viết thêm vào, khi bị cáo ký vào các giấy tờ đó chưa có những nội dung này. Xét thấy khi ký vào các giấy biên nhận và giấy nhận tiền trên bị cáo không bị ai ép buộc, việc ký nhận là tự nguyện, tại phiên tòa bị cáo cũng thừa nhận trước khi ký bị cáo có đọc lại, do vậy bị cáo xác định các bị hại ghi thêm sau khi bị cáo ký nhận là không có căn cứ. Anh Ngô Văn T5, anh Nguyễn Văn T6 là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người trực tiếp đưa tiền và chuyển tiền cho bị cáo qua tài khoản đều xác định bị cáo nhận tiền với mục đích lo xin việc cho các bị hại. Các nhân chứng là chị Ngô Thị H1, chị Vi Thị T7, bà Vi Thị H3 đều biết rõ việc bị cáo nhận các khoản tiền nêu trên để lo xin việc cho các bị hại. Mặc dù trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị K1 không thừa nhận hành vi phạm tội của mình, tuy nhiên căn cứ vào lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Nguyễn Thị K1 không có chức năng, quyền hạn trong việc tuyển dụng biên chế giáo viên mầm non và ngành y tế, cũng không có mối quan hệ gì để có thể xin được việc làm cho các chị Ngô Thị T4, Ngô Thị P1 và Nguyễn Thị Y1. Bị cáo nhận tiền của các chị T4, P1 và Y1 với lý do xin việc làm cho các chị là thủ đoạn gian dối, sau khi nhận được tiền bị cáo đã chiếm đoạt, sau đó nại ra việc vay tiền để kinh doanh.
Tải về bản án