TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P TỈNH HẬU GIANG Bản án số: 87/2022/HNGĐ-ST Ngày 27 – 6 – 2022 V/v Ly hôn, tranh chấp nuôi con | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH HẬU GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Lê Hoàng Em.
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Thành Quyến.
Ông Nguyễn Văn Dương.
Thư ký phiên toà: Bà Lê Thị Mỹ Chi là Thư ký Toà án nhân dân huyện P, tỉnh Hậu Giang.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Hậu Giang tham gia phiên toà: Bà Phan Thị Cẩm Tú - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 76/2022/TLST – HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2022 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 56/2022/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc N, sinh năm 1985.
Địa chỉ: ấp B, thị trấn K, huyện P, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.
Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu L, sinh năm 1979.
Địa chỉ: ấp B, thị trấn K, huyện P, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện gửi Tòa án và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị N trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh L có tìm hiểu và tiến đến hôn nhân vào năm 2003, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn K, huyện P, tỉnh Hậu Giang. Quá trình chung sống thì vợ chồng hạnh phúc được một thời gian dài, từ năm 2015 đến nay thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không còn hợp nhau trong nhiều việc, anh L đi làm không thường xuyên về nhà nên tình cảm vợ chồng ngày một phai nhạt, cả hai không còn quan tâm, yêu
thương, chia sẽ nhau trong cuộc sống, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Chị và anh L đã nhiều lần tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không thành. Chị N nhận thấy không còn tình cảm với anh L nữa nên chị yêu cầu ly hôn.
Về con chung: có 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc Q (giới tính: Nữ), sinh ngày 11/7/2004 và Nguyễn Minh X, (giới tính: Nam), sinh ngày 17/6/2011. Hiện con chung do chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị N yêu cầu được nuôi cả hai con, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa: bị đơn anh Nguyễn Hữu L đều vắng mặt nên chưa thể hiện ý kiến.
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên toà: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện đúng và đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do là chưa chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị N được ly hôn với anh L. Về con chung: giao 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc Q (giới tính: Nữ), sinh ngày 11/7/2004 và Nguyễn Minh X, (giới tính: Nam), sinh ngày 17/6/2011 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Dành quyền thăm nôm con chung cho anh L, không ai được cản trở. Về án phí chị N phải chịu theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Về quan hệ pháp luật tranh chấp: nguyên đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn, yêu cầu được nuôi con, Toà xác định quan hệ pháp luật tranh chấp phải giải quyết trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về thẩm quyền giải quyết: bị đơn trong vụ án là anh Nguyễn Hữu L có địa chỉ cư trú tại huyện P, tỉnh Hậu Giang. Căn cứ quy định tại các điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện P, tỉnh Hậu Giang.
Về xét xử trong trường hợp có đương sự vắng mặt tại phiên tòa: chị Nguyễn Thị Ngọc N là nguyên đơn, anh Nguyễn Hữu L là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc N và anh Nguyễn Hữu L tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên hôn nhân của anh chị được công nhận hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn, khi có mâu thuẫn anh chị không tạo điều kiện hàn gắn mà để
mâu thuẫn kéo dài dẫn đến cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Mặt khác, Toà án cũng đã tiến hành mời hòa giải cho anh chị nhưng anh chị đều vắng mặt không đến Tòa. Điều đó chứng tỏ tình cảm của anh chị đối với nhau không còn, mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân của anh chị đã thật sự trầm trọng, nếu tiếp tục chung sống sẽ không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Toà chấp nhận yêu cầu của chị N, cho chị N được ly hôn với anh L.
Về con chung: Chị N và anh L có 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc Q (giới tính: Nữ), sinh ngày 11/7/2004 và Nguyễn Minh X, (giới tính: Nam), sinh ngày 17/6/2011. Chị N yêu cầu được nuôi cả hai con chung, anh L chưa thể hiện ý kiến. Tòa xét thấy: cháu Q và cháu Nguyễn đã trên 07 tuổi, các cháu có nguyện vọng được sống với mẹ nếu cha mẹ cháu ly hôn. Mặt khác, cháu Q, cháu Nguyễn hiện do chị N đang trực tiếp nuôi dưỡng, do đó để tránh xáo trộn cuộc sống hiện tại của các cháu, trên cơ sở xem xét quyền lợi về mọi mặt của các cháu. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định giao hai con chung cho chị N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Theo khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Tuy nhiên do chưa có yêu cầu, nên Tòa không xem xét trong cùng vụ án này.
Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự không ai có yêu cầu giải quyết nên Tòa chưa xem xét. Nếu sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết thành một vụ án khác theo quy định của pháp luật.
Về án phí: nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo mức không có giá ngạch, bị đơn phải chịu án phí về cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Đối với phát biểu quan điểm về tố tụng và đề nghị về nội dung giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên toà là có căn cứ. Hội đồng xét xử thống nhất và chấp nhận toàn bộ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 147, 228, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015; các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ngọc N được ly hôn với anh Nguyễn Hữu L.
Về con chung: giao các cháu Nguyễn Thị Ngọc Q (giới tính: Nữ), sinh ngày 11/7/2004 và Nguyễn Minh X, (giới tính: Nam), sinh ngày 17/6/2011 cho chị Nguyễn Thị Ngọc N được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục. Anh Nguyễn Hữu L có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về án phí: buộc chị Nguyễn Thị Ngọc N chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chuyển 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp theo biên lai thu số 0007785 ngày 17/02/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P thành án phí.
Các đương sự được quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Hoàng Em |
Bản án số 87/2022/HNGĐ-ST ngày 27/06/2022 của TAND huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Số bản án: 87/2022/HNGĐ-ST
- Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 27/06/2022
- Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
- Tòa án xét xử: TAND huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Chị NGuyễn Thị Ngọc N yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Hữu L