TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 86/2021/HS-ST Ngày 18-8-2021
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà: Ông Đỗ Đức Hoàng
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Vũ Khắc Tân Bà Hà Thị Nga.
Thư ký phiên toà: Bà Lưu Hoàng Hải Bình - Thư ký Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành ph ố Hải Phòng tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2021/HSST ngày 15 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 204/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:
Hoàng Phi H, sinh ngày 11 tháng 5 năm 2000 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Khu N 3, phường A, quận D, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Anh D và bà Phạm Thị M; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 05/4/2021, ngày 09/4/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an thành phố Hải Phòng; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ ngày 04/4/2021, H đang ở nhà thì có H (là bạn quen biết xã hội, H chỉ biết tên và biết H ở trên Hà Nội, nhưng không rõ lai lịch địa chỉ) gọi điện thoại cho H rủ lên quán “Play House” đường Hồ Sen, quận Lê Chân, thành
phố Hải Phòng chơi. H đồng ý và gọi điện cho Phạm Việt D, sinh năm 2003 (trú tại: Số 72, tổ 2 H, phường H, quận L, thành phố H) qua đón mình. D điều khiển xe máy biển kiểm soát 15B3-071.22 chở H đến quán “Play House”. Khi đến gần quán, H thấy xe ôtô của H, H bảo D đứng đợi cách xe ôtô của H khoảng 05 mét, còn H một mình lên xe gặp H. Hải đưa cho H 3.000.000 đồng nhờ H mua hộ 05 viên thuốc lắc và 02 gam Ketamine để H sử dụng. H đồng ý rồi gọi điện cho một nam giới tên là Hải “mini” là chủ quán Cafe số 747 P, quận D, thành phố H hỏi mua 05 viên thuốc lắc và 02 gam ketamine. Hải ‘mini” báo giá 270.000 đồng/01 viên thuốc lắc và 1.600.000 đồng/01 gam ketamine tổng là 4.550.000 đồng và hẹn H qua quán cafe của H giao dịch. Khi H gọi điện cho Hải “mini” có bật loa ngoài cho H cùng nghe nội dung cuộc điện thoại, vì vậy H bảo H cứ lấy đi rồi về sẽ đưa thêm tiền. H xuống xe ôtô bảo D chở về nhà nhưng không nói cho D biết mục đích để H lấy thêm tiền đi mua ma túy. D tiếp tục chở H đến quán cafe 747 P. Đến nơi H một mình đi ra ngõ bên cạnh quán gặp H “mini” và đưa cho H “mini” 4.550.000 đồng. H “mini” nhận tiền rồi đi vào trong quán, khoảng 05 phút sau đi ra đưa H 01 túi nilon màu trắng có mép viền cam kích thước khoảng 4x5cm bên trong chứa: 05 viên thuốc lắc màu xanh và 02 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 2,5 x 2,5cm đều chứa Ketamine. Sau khi nhận túi ma túy, H cầm ma túy ở tay phải rồi điều khiển xe máy chở D về khu vực quán “Play House”. Sau khi gửi xe, H vẫn cầm túi ma túy ở tay phải đi bộ cùng D về quán “Play House”, khi đi đến khu vực trước cửa nhà số 12 Hồ Sen, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng thì bị Tổ công tác thuộc đội Cảnh sát điều tra tội phạm ma túy Công an quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng làm nhiệm vụ phát hiện Hoàng Phi H và Phạm Việt D đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy.
Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, quá trình kiểm tra H đã ném 01 túi nilon từ tay phải xuống đất về phía trước cách chân phải H đang đứng khoảng 01 mét. Tổ công tác thu giữ kiểm tra túi nilon H ném ra thấy bên trong túi nilon màu trắng mép viền cam kích thước 4x5cm có chứa 05 viên nén màu xanh và 02 túi nilon màu trắng kích thước 2,5 x 2,5cm đều chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp. Ngoài ra lực lượng Công an còn thu giữ của H 01 điện thoại Iphone màu hồng, thu giữ của D 01 điện thoại Iphone màu vàng và 01 xe máy biển kiểm soát 15B3-071.22. Sau đó, tổ công tác đã đưa H và D cùng toàn bộ tang vật về trụ sở Công an quận lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại Kết luận giám định số 246/KLGĐ-MT ngày 08/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hải Phòng kết luận:
05 (năm) viên nén màu xanh của mẫu số 01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,28 gam, là loại MDMA;
Tinh thể màu trắng của mẫu số 02 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,67 gam, là loại Ketamine.
Tại cơ quan cảnh sát điều tra, Hoàng Phi H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra, Phạm Việt D khai nhận phù hợp với lời khai của Hoàng Phi H về việc đi cùng H đến quan Play House ngày 04/4/2021. D không biết việc H mang theo ma túy trên người, không biết H mua ma túy từ bao giờ và mua của ai.
Tại Cáo trạng số 85/CT-VKSLC ngày 14/7/2021, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố bị can Hoàng Phi H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Qua xem xét đánh giá chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra, cùng lời khai nhận của bị cáo, lời khai của người làm chứng. Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân giữ nguyên quan điểm truy tố bị can Hoàng Phi H theo tội danh cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Phi H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Phi H với mức hình phạt từ 30 (ba mươi) tháng đến 36 (ba mươi sáu) tháng tù.
Xét điều kiện, hoàn cảnh gia đình của bị cáo, bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Đối với phong bì có số niêm phong số 246 MT/PC09 đựng vỏ bao gói và số ma túy còn lại sau giám định, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu Hồng đã qua sử dụng số IMEI 355688077001363 là tài sản của bị cáo đã sử dụng làm phương tiện liên lạc trong việc giao dịch mua ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng đã qua sử dụng, là tài sản của Phạm Việt D không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan điều tra - Công an quận Lê Chân đã trả lại cho Phạm Việt D.
Đối chiếc xe máy BKS 15B3-071.22, qua điều tra xác định chiếc xe thuộc sở hữu của anh Nguyễn Cát D, sinh năm 1990 (trú tại: Thôn Đá Bạc, xã Gia Minh, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, anh D không biết việc D mượn xe máy để đi đâu làm gì. Vì vậy, Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe máy cho anh D quản lý, sử dụng.
Về án phí: Bị cáo Hoàng Phi H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy
định của pháp luật.
Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn được sự khoan hồng của pháp luật, được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện.
Về tội danh:
Lời khai về hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng Phạm Việt D, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, cùng với vật chứng đã được thu giữ trong vụ án. Căn cứ vào các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Bản kết luận giám định số 246/KLGĐ-MT ngày 08/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hải Phòng kết luận: 05 (năm) viên nén màu xanh của mẫu số 01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,28 gam, là loại MDMA; tinh thế màu trắng của mẫu số 02 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,67 gam, là loại Ketamine nằm trong danh mục quy định tại Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/8/2018 của Chính phủ.
Từ những phân tích trên và quan điểm truy tố của Viện Kiểm sát tại phiên tòa, đủ cơ sở kết luận bị cáo Hoàng Phi H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
Xét tổng số lượng các chất ma túy thu giữ của Hoàng Phi H nêu trên chưa đủ lượng áp dụng tình tiết định khung được quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, không có tiền án, tiền sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại Cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo có công với cách mạng, đây là tình
tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về hình phạt áp dụng:
Xét tội phạm mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy; vi phạm Điều 3 Luật phòng, chống ma túy nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo và buộc bị cáo phải cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định đủ để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét hoàn cảnh của bị cáo không có việc làm, không có tài sản riêng, trên cơ sở quan điểm đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, nên Hội đồng xét xử miễn áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng:
Cơ quan công an thu giữ của bị cáo 05 (năm) viên nén màu xanh có khối lượng 2,28 gam, là loại MDMA; 02 túi nilon chứa tinh thế màu trắng có khối lượng 1,67 gam, là loại Ketamine xác định là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật dùng chứa chất ma túy, cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu Hồng đã qua sử dụng số IMEI 355688077001363 là tài sản của bị cáo đã sử dụng làm phương tiện liên lạc trong việc giao dịch mua ma túy, cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
Về nội dung khác:
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng đã qua sử dụng, là tài sản của Phạm Việt D không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã trả lại cho Phạm Việt D, nên không xem xét giải quyết.
Đối chiếc xe máy BKS 15B3-071.22, qua điều tra xác định chiếc xe thuộc sở hữu của anh Nguyễn Cát D, sinh năm 1990 (trú tại: Thôn D, xã G, huyện T, thành phố H, anh D không biết việc D mượn xe máy để đi đâu làm gì. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe máy cho anh D quản lý, sử dụng, nên không xem xét giải quyết.
Đối với nam giới tên Hải “mini”, qua xác minh tại địa chỉ 747 P, phường H, quận D, thành phố H có nam giới tên Phạm Văn H, sinh năm 1987, ĐKHKTT: Tổ 13 H, quận D, H mở quán cafe tại đây. Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an quận Lê Chân đã tiến hành cho H nhận dạng Hải, xác định H là người đã bán ma túy cho H, đồng thời đã ra Lệnh khám xét chỗ ở tại số 747 P nhưng H vắng mặt tại địa phương, căn nhà trên hiện không có người ở nên Cơ quan điều tra chưa thực hiện được việc khám xét. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.
Đối với nam giới tên H (là người nhờ H mua ma túy), H khai không biết H ở đâu, mà chỉ liên lạc qua số điện thoại 0902.047.293. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã ra lệnh thu giữ điện tín số điện thoại trên. Kết quả trả lời chủ thuê bao là Đỗ Văn D, sinh năm 1992, nơi ở: xã A, huyện Q, tỉnh T. Tiến hành xác minh tại Công an xã An Vinh, không có ai tên Đỗ Văn D có lai lịch như trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân chưa có căn cứ để điều tra tiếp.
Đối với Phạm Việt D là người đi cùng Hoàng Phi H, kết quả điều tra không đủ cơ sở chứng minh D có hành vi đồng phạm Tàng trữ trái phép chất ma túy cùng với Hoàng Phi H, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không xử lý.
Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Phi H 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 05/4/2021.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có số niêm phong 246 MT/PC09
đựng số ma túy còn lại sau giám định;
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Iphone màu hồng đã cũ có số IMEI 355688077001363;
(Theo biên bản giao, nhận tài sản, vật chứng ngày 14 tháng 7 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Hoàng Phi H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án đựơc thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi thành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành dân sự đựơc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
Bị cáo;
VKSND quận Lê Chân;
VKSND thành phố Hải Phòng;
PV06, PC10-Công an TP. Hải Phòng;
CQCSĐT-Công an quận Lê Chân;
Cơ quan THAHS quận Lê Chân;
Sở Tư pháp TP. Hải Phòng;
Chi cục THADS quận Lê Chân;
Trại tạm giam Công an TP. Hải Phòng;
UBND p. Anh Dũng, q. D Kinh, tp. Hải Phòng;
Lưu: VP, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Đức Hoàng
Bản án số 86/2021/HS-ST của TAND Q. Lê Chân, TP. Hải Phòng
- Số bản án: 86/2021/HS-ST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 18/08/2021
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND Q. Lê Chân, TP. Hải Phòng
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Bản án Hoàng phi hùng