Bản án số 81/2020/DS-PT ngày 27/05/2020 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Số bản án: 81/2020/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 27/05/2020
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Phước
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Khoảng 8/2016, do có nhu cầu cần tiền để mua phân bón trang trải cuộc sống và trả tiền Ngân hàng nên vợ chồng ông Ph hỏi nhờ bà Y đi vay tiền Ngân hàng dùm. Khoảng tháng 9/2016 thì bà Y giới thiệu cho vợ chồng ông bà vay số tiền 150.000.000 đồng ở Ngân hàng Đ và có thế chấp 02 GCNQSDĐ. Đến tháng 10/2016 thì bà Y nói là rút sổ ở Ngân hàng Đ để vay ở Ngân hàng Bù Đăng cho gần và bà Y hứa cho vay 150.000.000 đồng để rút sổ. Bà Y đã đưa cho vợ chồng ông vay số tiền 150.000.000 đồng để rút sổ ở Đồng X. Trong tháng 10/2016 thì vợ chồng ông, bà Y, K’Tuyển đến Ngân hàng ở Đồng X để trả tiền. Khi về đến nhà bà Y thì vợ chồng ông đưa 02 sổ đỏ trên cho bà Y, lý do đưa sổ cho bà Y là vì bà Y yêu cầu vợ chồng ông đưa để làm tin vay số tiền 150.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận tháng 4/2017 sẽ trả số tiền trên cho bà Y. Khoảng 01 tuần sau đó cụ thể vào ngày 18/10/2016 bà Y có điện thoại vợ chồng ông lên nhà bà Y và bà Y dẫn ra VPCC Đ ký thủ tục thế chấp GCNQSDĐ để vay tiền và vợ chồng ông cũng không hỏi gì vì tin tưởng bà Y. Tại VPCC B người làm việc trong phòng công chứng có đọc nội dung hợp đồng cho vợ chồng ông nghe nhưng do mưa to ông không nghe rõ nội dung trong hợp đồng. Chữ ký trong hợp đồng sang nhượng ngày 18/10/2016 và ngày 25/10/2016 là do ông ký và vợ ông điểm chỉ. Sau ngày công chứng tại VPCC B (không nhớ ngày cụ thể) thì khi vợ chồng ông lên trả tiền lãi cho bà Y thì bà Y có đưa cho vợ chồng ông 03 tờ giấy và ông có ký tên, vợ ông bà B điểm chỉ. Nhưng nội dung 03 tờ giấy đó ông không biết, ông có yêu cầu bà Y đọc nhưng bà Y không đọc và bà Y đều giữ ông không giữ bản nào. Lý do ông ký vì bà Y yêu cầu vợ chồng ông ký vàvợ chồng ông nghĩ là biên nhận trả tiền cho bà Y nên mới ký. Vợ chồng ông đã trả cho bà Y 48.000.000 đồng (trong đó 20.000.000đồng tiền gốc và 28.000.000 đồng tiền lãi). Lúc ký giấy và làm biên nhận trả tiền chỉ có vợ chồng ông bà, bà Y và con trai bà Y là Điểu K Tuyển, ngoài ra không còn ai khác. Hiện nay vợ chồng ông bà còn nợ bà Y 130.000.000đồng. Vợ chồng Ông Ph, bà B không sang nhượng 02 thửa đất trên cho bà Y,ông KQ và ông Tuấn Anh mà chỉ thế chấp sổ đỏ để làm tin vay tiền. Vợ chồng ông không biết chữ nên bà Y đã lừa dối vợ chồng ông ký hợp đồng sang nhượng đất ngày 18/10/2016 và ngày 25/10/2016 đối với 02 thửa đất diện tích 11408m2 và thửa đất diện tích 15295m2 đều tọa lạc tại thôn 8, xã M, huyện B, tỉnh Bình Phước. Tuy nhiên khi ký hợp đồng chuyển nhượng Ông Ph chỉ biết nói vẽ tên còn bà B không biết nói tiếng Kinh và không biết chữ nhưng tại VPCC B không có người chứng kiến, không có người phiên dịch. Vì vậy vợ chồng ông khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy HĐCNQSDĐ ngày 18/10/2016 giữa vợ chồng Ông Ph, bà B và bà Đinh Thị Y, ông Trần Tuấn A. Hủy HĐCNQSDĐ ngày 25/10/2016 giữa vợ chồng Ông Ph, bà B và bà Đinh Thị Y, ông Điểu KQ. Hủy HĐCNQSDĐ số 0741 ngày 14/3/2017 giữa bà Đinh Thị Y, ông Điểu KQ với ông Lê Văn Ng.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 81/2020/DS-PT ngày 27/05/2020 của TAND tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Số bản án: 81/2020/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 27/05/2020
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Phước
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Khoảng 8/2016, do có nhu cầu cần tiền để mua phân bón trang trải cuộc sống và trả tiền Ngân hàng nên vợ chồng ông Ph hỏi nhờ bà Y đi vay tiền Ngân hàng dùm. Khoảng tháng 9/2016 thì bà Y giới thiệu cho vợ chồng ông bà vay số tiền 150.000.000 đồng ở Ngân hàng Đ và có thế chấp 02 GCNQSDĐ. Đến tháng 10/2016 thì bà Y nói là rút sổ ở Ngân hàng Đ để vay ở Ngân hàng Bù Đăng cho gần và bà Y hứa cho vay 150.000.000 đồng để rút sổ. Bà Y đã đưa cho vợ chồng ông vay số tiền 150.000.000 đồng để rút sổ ở Đồng X. Trong tháng 10/2016 thì vợ chồng ông, bà Y, K’Tuyển đến Ngân hàng ở Đồng X để trả tiền. Khi về đến nhà bà Y thì vợ chồng ông đưa 02 sổ đỏ trên cho bà Y, lý do đưa sổ cho bà Y là vì bà Y yêu cầu vợ chồng ông đưa để làm tin vay số tiền 150.000.000 đồng, hai bên thỏa thuận tháng 4/2017 sẽ trả số tiền trên cho bà Y. Khoảng 01 tuần sau đó cụ thể vào ngày 18/10/2016 bà Y có điện thoại vợ chồng ông lên nhà bà Y và bà Y dẫn ra VPCC Đ ký thủ tục thế chấp GCNQSDĐ để vay tiền và vợ chồng ông cũng không hỏi gì vì tin tưởng bà Y. Tại VPCC B người làm việc trong phòng công chứng có đọc nội dung hợp đồng cho vợ chồng ông nghe nhưng do mưa to ông không nghe rõ nội dung trong hợp đồng. Chữ ký trong hợp đồng sang nhượng ngày 18/10/2016 và ngày 25/10/2016 là do ông ký và vợ ông điểm chỉ. Sau ngày công chứng tại VPCC B (không nhớ ngày cụ thể) thì khi vợ chồng ông lên trả tiền lãi cho bà Y thì bà Y có đưa cho vợ chồng ông 03 tờ giấy và ông có ký tên, vợ ông bà B điểm chỉ. Nhưng nội dung 03 tờ giấy đó ông không biết, ông có yêu cầu bà Y đọc nhưng bà Y không đọc và bà Y đều giữ ông không giữ bản nào. Lý do ông ký vì bà Y yêu cầu vợ chồng ông ký vàvợ chồng ông nghĩ là biên nhận trả tiền cho bà Y nên mới ký. Vợ chồng ông đã trả cho bà Y 48.000.000 đồng (trong đó 20.000.000đồng tiền gốc và 28.000.000 đồng tiền lãi). Lúc ký giấy và làm biên nhận trả tiền chỉ có vợ chồng ông bà, bà Y và con trai bà Y là Điểu K Tuyển, ngoài ra không còn ai khác. Hiện nay vợ chồng ông bà còn nợ bà Y 130.000.000đồng. Vợ chồng Ông Ph, bà B không sang nhượng 02 thửa đất trên cho bà Y,ông KQ và ông Tuấn Anh mà chỉ thế chấp sổ đỏ để làm tin vay tiền. Vợ chồng ông không biết chữ nên bà Y đã lừa dối vợ chồng ông ký hợp đồng sang nhượng đất ngày 18/10/2016 và ngày 25/10/2016 đối với 02 thửa đất diện tích 11408m2 và thửa đất diện tích 15295m2 đều tọa lạc tại thôn 8, xã M, huyện B, tỉnh Bình Phước. Tuy nhiên khi ký hợp đồng chuyển nhượng Ông Ph chỉ biết nói vẽ tên còn bà B không biết nói tiếng Kinh và không biết chữ nhưng tại VPCC B không có người chứng kiến, không có người phiên dịch. Vì vậy vợ chồng ông khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy HĐCNQSDĐ ngày 18/10/2016 giữa vợ chồng Ông Ph, bà B và bà Đinh Thị Y, ông Trần Tuấn A. Hủy HĐCNQSDĐ ngày 25/10/2016 giữa vợ chồng Ông Ph, bà B và bà Đinh Thị Y, ông Điểu KQ. Hủy HĐCNQSDĐ số 0741 ngày 14/3/2017 giữa bà Đinh Thị Y, ông Điểu KQ với ông Lê Văn Ng.