TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 77/2021/HS-ST Ngày 01-7-2021
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Phong Lan
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Nguyễn Thị Mai Ông Nguyễn Văn Hạnh
Thư ký phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Thu Thủy - Thư ký Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng tham gia phiên toà: Ông Trần Hùng Vũ - Kiểm sát viên.
Ngày 01 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 173/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
Phạm Văn T, sinh năm 1995 tại Lào Cai. Nơi cư trú: P, N, B, Lào Cai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Q và bà Trần Thị H; có vợ là Lê Thu T và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 11/11/2020; tạm giam ngày 20/11/2020; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Ngày 08/10/2020, Phạm Văn T mua xe ô tô nhãn hiệu Lexus rx300 màu sơn đen với giá 85.000.000 đồng của Bùi Văn Cương (sinh năm: 1981, trú tại: Đại Đức, Kim Thành, Hải Dương). Xe ô tô trên trước đó thuộc sở hữu của Lâm trường 422, Công ty 622 Quân khu 9 bán cho Cương để tháo dỡ phụ tùng, không được lưu thông nên không có giấy tờ và biển số. Do có nhu cầu sử dụng xe ô tô trên để đi lại nên T đã tra thông tin trên mạng Internet để tìm người bán biển số giả. T dùng tài khoảng Zalo tên “Vinashin” của mình kết bạn với tài khoản Zalo tên “Hoàng” (của một nam giới tự
nhận tên là Hoàng, không rõ số điện thoại) để làm bộ giấy tờ xe giả gồm: 01 giấy chứng nhận đăng ký xe, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 tem kiểm định, 01 tem thu phí đường bộ và 02 biển số xe ô tô, số biển do Hoàng tự chọn với giá là 6.000.000 đồng. T chụp ảnh xe ô tô, số khung, số máy của xe ô tô và thông tin cá nhân của T rồi gửi qua Zalo “Hoàng” để Hoàng sử dụng những thông tin đó làm những giấy tờ, tài liệu giả như trên. Ngày 03/11/2020, T nhận được 01 bộ giấy tờ xe giả qua xe ô tô khách (T không nhớ cụ thể) gồm: 01 giấy chứng nhận đăng ký xe, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 tem kiểm định, 01 tem thu phí đường bộ và 02 biển kiểm soát số: 24A-684.99 (riêng giấy chứng nhận kiểm định mang biển kiểm soát số: 29A-684.99). Sau đó, theo hướng dẫn của Hoàng, T chuyển khoản cho số tài khoản 19011500005011 của Ngân hàng Techcombank mang tên Phạm Bảo Hoàng số tiền
6.000.000 đồng. Tuy nhiên, T phát hiện đầu số đăng ký xe ô tô của tỉnh Lào Cai chưa
đến số “6 vạn” nên T tiếp tục mua một bộ giấy tờ giả khác của Hoàng với giá
4.000.000 đồng với biển số xe khác. Khoảng 13 giờ ngày 08/11/2020, T nhận được 01 bộ giấy tờ xe giả lần hai qua xe ô tô khách (T không nhớ cụ thể) gồm: 01 giấy chứng nhận đăng ký xe, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 tem kiểm định, 01 tem thu phí đường bộ và 02 biển kiểm soát số: 24A-121.99. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, T nảy sinh ý định cầm cố xe ô tô để lấy tiền trả nợ và chi tiêu cá nhân. T lên mạng xã hội và kết bạn, nói chuyện với hàng cầm đồ F1 – địa chỉ số 367 Hai Bà Trưng, Lê Chân, Hải Phòng để cầm cố xe ô tô. T đề nghị cầm xe với giá 300.000.000 đồng. T chụp ảnh xe ô tô, giấy tờ xe giả (bộ giấy tờ biển kiểm soát 24A-121.99) và chứng minh nhân dân của T rồi gửi qua Zalo của cửa hàng cầm đồ F1 thì cửa hàng báo giá cầm xe là từ 230.000.000 đến 260.000.000 đồng. Khoảng 20 giờ cùng ngày, T đón Dương Văn Sáng (sinh năm: 1996, trú tại: Cẩm La, Cẩm Phả, Quảng Ninh – là công nhân xây dựng đang làm thuê cho T) đi cùng. Khoảng 22 giờ cùng ngày, T điều khiển xe ô tô biển kiểm soát: 24A-121.99 đến của hàng cầm đồ F1 gặp anh Đỗ Minh Tuấn (sinh năm: 1986, trú tại: số 22/64 tổ 21 Chợ Đôn, Nghĩa Xá, Lê Chân, Hải Phòng – là chủ cửa hàng) để trao đổi việc cầm cố xe. Khi kiểm tra giấy tờ xe mà T đưa (gồm bộ giấy tờ xe ô tô giả biển kiểm soát 24A-121.99 và chứng minh nhân dân của T), anh Tuấn thấy chứng minh nhân dân là đúng người cầm xe, nhưng khi tra thông tin đăng ký xe ô tô trên hệ thống thì phát hiện thông tin không trùng khớp nên nghi ngờ đây là giấy tờ giả và báo Công an bắt giữ.
Phạm Văn T bị bắt theo lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, thu giữ của T 01 xe ô tô nhãn hiệu Lexus rx300 màu đen; 02 bộ giấy tờ giả; 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Văn T và 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ.
Tại Kết luận giám định số 154 ngày 11/11/2020; Kết luận giám định số 128 ngày 04/02/2021và Kết luận giám định số 22 ngày 04/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “01 giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô biển số 29A-684.99, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô, 01 tem đăng kiểm, 01 tem phí sử dụng đường bộ (cùng biển số 24A-684.99) và 02 biển số 24A-684.99 là giả; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô, 01 giấy chứng nhận kiểm định, 01 tem đăng kiểm,
01 tem phí sử dụng đường bộ (cùng biển số 24A-121.99) và 02 biển số 24A-121.99 là giả”.
Tại Cơ quan điều tra Phạm Văn T khai nhận: T mua xe ô tô nhãn hiệu Lexus rx300 màu sơn đen và làm bộ giấy tờ giả mang thông tin cá nhân của T để nhằm mục đích đi lại. Do cần gấp tiền để trả nợ và trả công thợ nên T mới cầm cố xe ô tô trên trong thời hạn 01 đến 02 tháng. T không có ý định lừa đảo cửa hàng cầm đồ F1 vì T sử dụng chứng minh nhân dân thật và các thông tin trên đăng ký xe đều là thông tin thật của T.
Ngoài ra, T còn thực hiện một số hành vi phạm tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức và lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và Hải Dương. Hiện T đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh khởi tố điều tra về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương khởi tố điều tra về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Xác minh nguồn gốc 01 xe ô tô nhãn hiệu Lexus rx300 màu đen: Lâm trường 422, Công ty 622 Quân khu 9 có sử dụng xe ô tô trên để chạy trong đất rừng. Toàn bộ giấy tờ xe đã bị thất lạc. Do xe đã hỏng nên Lâm trường đã bán phế liệu xác xe cho Bùi Văn Cương. Sau đó Cương bán lại cho T. Khi giao xe đều có ghi xác nhận rõ đây là xe hư hỏng, mua về khai thác vật tư phụ tùng.
Tại Cơ quan điều tra: Dương Văn Sáng khai nhận chỉ cùng T đi Hải Phòng cầm xe ô tô. Sáng không biết nguồn gốc xe ô tô và không tham gia vào việc làm giả giấy tờ tài liệu.
Tại Cơ quan điều tra, Phạm Bảo Hoàng, sinh năm 2000; trú tại: Tổ dân phố 7 Nam Hồng, Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh (là chủ tài khoản số 19011500005011 Ngân hàng Techcombank) khai nhận: Khoảng tháng 8/2019 khi đang đi học đại học Sư phạm kỹ thuật 3 thành phố Vinh, Nghệ An thì Hoàng có mở tài khoản trên để sử dụng. Hoàng có quen một nam giới tên Hùng làm nghề mua bán xe cũ (hiện không rõ lai lịch, địa chỉ) từ khoảng năm 2020. Hùng nói với Hoàng là bị khóa thẻ ngân hàng và mất chứng minh nhân dân chưa làm lại được nên có vài lần mượn tài khoản của Hoàng để giao dịch. Hoàng chỉ sử dụng số điện thoại 0976091777 và Zalo tên “Bảo Hoàng” (được đăng ký bằng số điện thoại trên). Hoàng không quen biết với Phạm Văn T và không trò chuyện với Zalo tên “Vinashin”
Tại Bản cáo trạng số 67/CT-VKS ngày 05/5/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” theo điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào tính
chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Văn T mức án từ 05 đến 06 năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề
nghị:
Tịch thu tiêu hủy 02 biển số 24A-684.99 (giả) và 02 biển số 24A-121.99 (giả)
thu giữ của bị cáo (không còn giá trị sử dụng);
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ thu giữ của bị cáo (là công cụ, phương tiện dùng vào phạm tội);
Trả lại bị cáo: 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Văn T (tài sản riêng của bị cáo).
Đối với 01 xe ô tô nhãn hiệu Lexus rx300 màu đen thu giữ của bị cáo, xét thấy tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ chưa đủ chứng cứ để chứng minh về nguồn gốc của chiếc xe trên nên đề nghị HĐXX tuyên trả lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê chân tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.
Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí lệ phí của Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Sau khi nghe đại diện Viện Kiểm sát luận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và tại lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm trở về hòa đồng với xã hội và cải tạo thành công dân tốt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về tội danh:
Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; Kết luận giám định số 154 ngày
11/11/2020; Kết luận giám định số 128 ngày 04/02/2021 và Kết luận giám định số 22 ngày 04/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa; lời khai đó thể hiện: Ngày 08/10/2020, Phạm Văn T mua xe ô tô nhãn hiệu Lexus rx300 màu sơn đen của Bùi Văn Cương (chiếc xe này thuộc sở hữu của Lâm trường 422, Công ty 622 Quân khu 9 bán cho Cương để tháo dỡ phụ tùng, không được lưu thông nên không có giấy tờ và biển số). Khoảng cuối tháng 10/2020, T dùng tài khoản Zalo tên “Vinashin” của mình kết bạn với tài khoản Zalo tên “Hoàng” (không rõ số điện thoại) để làm bộ giấy tờ xe giả mang thông tin cá nhân của T để nhằm hợp thức hóa chiếc xe ô tô trên, mục đích để sử dụng đi lại, sau đó do cần tiền nên T mang đi cầm cố. Ngày 08/11/2020, khi T đến quán cầm đồ F1 - Địa chỉ số 367 Hai Bà Trưng, Lê Chân, Hải Phòng để sử dụng những giấy tờ giả trên cầm cố xe ô tô nhãn hiệu Lexus rx300 màu đen thì bị phát hiện và bắt giữ. Như vậy hành vi của bị cáo đã thỏa mãn yếu tố cấu thành tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” theo Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Phạm Văn T thực hiện hành vi cung cấp thông tin để làm giả 12 tài liệu của cơ quan tổ chức. Do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng định khung hình phạt “Làm 06 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác trở lên…” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình.
Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội danh và điều luật như trên là có cơ sở, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của cơ quan Nhà nước gây mất trật tự xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác nên phải xử lý nghiêm.
Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo 02 lần thuê một đối tượng (không rõ lai lịch, địa chỉ) có tài khoản Zalo “Hoàng” làm giả 12 tài liệu của cơ quan tổ chức (02 bộ giấy tờ xe giả) vào các ngày 03/11/2020 và 08/11/2020. Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, T còn thực hiện một số hành vi phạm tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức và lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và Hải Dương. Hiện T đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương khởi tố điều tra về các hành vi Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức và lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Song hành vi phạm tội lần này của bị cáo được thực hiện trước khi bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương khởi tố về các hành vi trên, nên lần phạm tội này của bị cáo không bị coi là tái phạm nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, cần buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Về tình tiết giảm nhẹ: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi quyết định hình phạt.
Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 341 Bộ luật Hình sự thì ngoài hình phạt chính bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng:
Đối với 02 biển số 24A-684.99 (giả) và 02 biển số 24A-121.99 (giả) thu giữ của bị cáo, xét không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.
Đối với 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ thu giữ của bị cáo xét đây là công cụ, phương tiện bị cáo dùng vào phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Văn T thu giữ của bị cáo xét đây là tài sản riêng của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.
Đối với 01 xe ô tô nhãn hiệu Lexus rx300 màu đen thu giữ của bị cáo, xét thấy tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ chưa đủ chứng cứ để xác định chủ sở hữu của chiếc xe trên. Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê chân tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Đối với bộ hồ sơ giả gồm 02 Giấy chứng nhận đăng ký xe oto, 02 Giấy chứng nhận kiểm định, 02 tem đăng kiểm, 02 tem phí sử dụng đường bộ , Hội đồng xét xử xét đây vừa là tang vật vừa là tài liệu có trong hồ sơ vụ án nên cần lưu theo số bút lục hồ sơ vụ án.
Đối với Dương Văn Sáng, do không liên quan đến hành vi phạm tội của T nên Cơ quan điều tra không xử lý. Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với Phạm Bảo Hoàng: Tài liệu điều tra không đủ căn cứ để kết luận nên Cơ quan điều tra không xử lý. Hội đồng xét xử không xem xét .
Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1
Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Văn T 05 (Năm) năm tù về tội “Làm giả con
dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 11 tháng 11 năm 2020.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 02 biển số 24A-684.99 (giả) và 02 biển số 24A-121.99 (giả) thu giữ của bị cáo (không còn giá trị sử dụng).
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ, có số imei 1: 869002031761410, số imei 2: 869002031761402 thu giữ của bị cáo (là công cụ, phương tiện dùng vào phạm tội).
Trả lại bị cáo 01 chứng minh nhân dân số 063397072 mang tên Phạm Văn T. Trả lại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê chân 01 xe ô tô nhãn hiệu
Lexus rx300 màu sơn: Đen, số khung: MCU10-0075153, số máy: 1MZ*0971914, số
Vin: JT6GF10U1Y0075153 (không đeo biển số) thu giữ của bị cáo để tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/5/2021 giữa Cơ quan Công an quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.
Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
Bị cáo;
VKSND quận Lê Chân;
VKSND TP Hải Phòng;
Cơ quan CSĐT Công an quận Lê Chân;
Cơ quan Thi hành án hình sự Công an quận Lê Chân;
Trại tạm giam Công an TP Hải Phòng;
UBND nơi cư trú của bị cáo;
Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân;
PV06, PC10 Công an TP Hải Phòng;
Sở Tư pháp TP Hải Phòng;
Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Phong Lan
Bản án số 77/2021/HS-ST của TAND Q. Lê Chân, TP. Hải Phòng
- Số bản án: 77/2021/HS-ST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 01/07/2021
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND Q. Lê Chân, TP. Hải Phòng
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Phạm Văn Tiến làm giả tài liệu