Bản án số 74/2022/DS-ST ngày 09/12/2022 của TAND huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số bản án: 74/2022/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 09/12/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Bà và bà C, ông B không có bà con dòng họ gì với nhau, chỉ là chỗ quen
biết. Bà cho vợ chồng bà C, ông B vay tổng cộng 100.000.000 đồng, cụ thể:
-Lần 1: ngày 30-7-2011 cho bà C vay số tiền 85.000.000 đồng, có làm giấy
2
tay, do bà C viết và ký tên, hẹn sau 01 tháng sẽ trả, nhưng không có ghi trong
giấy nợ, thỏa thuận lãi suất là 4%/ tháng.
- Lần 2: ngày 04-10-2010 cho bà C vay số tiền 10.000.000 đồng, có làm
giấy tay, do bà C viết và ký tên, không hẹn thời gian trả, thỏa thuận lãi suất là
5%/ tháng.
- Lần 3: ngày 27-5-2014 cho ông B vay số tiền 5.000.000 đồng, có làm
giấy tay, do bà viết và ông B ký tên, hẹn sau 01 tháng sẽ trả, không thỏa thuận
lãi suất.
Trong tổng số tiền trên, số tiền 95.000.000 đồng do bà C hỏi vay và nhận
tiền, số tiền 5.000.000 đồng do ông B vay nhưng cả hai vợ chồng bà C, ông B
đều biết việc vay tiền. Sau khi vay bà C, ông B không có trả tiền lãi hay tiền gốc
gì cho bà. Bà C có yêu cầu trừ qua tiền mua đất nhưng bà không đồng ý
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 74/2022/DS-ST ngày 09/12/2022 của TAND huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số bản án: 74/2022/DS-ST
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Ngày ban hành: 09/12/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Bà và bà C, ông B không có bà con dòng họ gì với nhau, chỉ là chỗ quen
biết. Bà cho vợ chồng bà C, ông B vay tổng cộng 100.000.000 đồng, cụ thể:
-Lần 1: ngày 30-7-2011 cho bà C vay số tiền 85.000.000 đồng, có làm giấy
2
tay, do bà C viết và ký tên, hẹn sau 01 tháng sẽ trả, nhưng không có ghi trong
giấy nợ, thỏa thuận lãi suất là 4%/ tháng.
- Lần 2: ngày 04-10-2010 cho bà C vay số tiền 10.000.000 đồng, có làm
giấy tay, do bà C viết và ký tên, không hẹn thời gian trả, thỏa thuận lãi suất là
5%/ tháng.
- Lần 3: ngày 27-5-2014 cho ông B vay số tiền 5.000.000 đồng, có làm
giấy tay, do bà viết và ông B ký tên, hẹn sau 01 tháng sẽ trả, không thỏa thuận
lãi suất.
Trong tổng số tiền trên, số tiền 95.000.000 đồng do bà C hỏi vay và nhận
tiền, số tiền 5.000.000 đồng do ông B vay nhưng cả hai vợ chồng bà C, ông B
đều biết việc vay tiền. Sau khi vay bà C, ông B không có trả tiền lãi hay tiền gốc
gì cho bà. Bà C có yêu cầu trừ qua tiền mua đất nhưng bà không đồng ý