Bản án số 73A/2022/DS-PT ngày 19/04/2022 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng dịch vụ
Số bản án: 73a/2022/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng dịch vụ
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 19/04/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Năm 2012 bà Y có hợp đồng miệng với ông Chềnh Mộc S, theo đó ông S có trách nhiệm lắp đặt cho bà Y toàn bộ dây chuyền về chế biến, sản xuất tinh bột mì tại DNTN YN tại Buôn K, xã Cư Pui, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, giá trị hợp đồng là 10 tỷ đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng bà Y đã chuyển trước cho ông S 2,5 tỷ đồng. Sau khi hoàn tất việc lắp đặt, chạy thử, bà Y yêu cầu ông S cung cấp hồ sơ, tài liệu chứng minh nguồn gốc, xuất xứ của dây chuyền cũng như báo cáo tác động môi trường để bà Y thế chấp vay tiền thanh toán cho ông S, nhưng ông S không có để cấp nên hợp đồng không tiếp tục thực hiện được. Vì vậy, bà Y khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng lắp đặt thiết bị dây chuyền, máy móc chế biến tinh bột mì giữa bà Y với ông S vô hiệu và buộc ông S phải trả cho bà Y số tiền gốc 2,5 tỷ đồng và tiền lãi. Bị đơn cho rằng Hợp đồng mua bán lắp đặt nhà máy sản xuất chế biến tinh bột mì là hợp đồng song vụ, ông S đã hoàn thành nghĩa vụ lắp đặt của mình, do đó bà Y phải thực hiện nghĩa vụ là thanh toán số tiền hợp đồng còn lại cho ông S là 7,5 tỷ đồng. Vì vậy, bị đơn có đơn phản tố đề nghị Tòa án công nhận Hợp đồng mua bán lắp đặt nhà máy sản xuất chế biến tinh bột mì được giao kết giữa ông Chềnh Mộc S và bà Nguyễn Thị Châu Y là có hiệu lực. Theo đó, buộc bà Y phải trả cho ông S số tiền hợp đồng còn lại là 7,5 tỷ đồng.
Bản án liên quan
THÔNG TIN BẢN ÁN
Bản án số 73A/2022/DS-PT ngày 19/04/2022 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng dịch vụ
Số bản án: 73a/2022/DS-PT
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng dịch vụ
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Ngày ban hành: 19/04/2022
Loại vụ/việc: Dân sự
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
Đính chính: Đang cập nhật
Thông tin về vụ/việc: Năm 2012 bà Y có hợp đồng miệng với ông Chềnh Mộc S, theo đó ông S có trách nhiệm lắp đặt cho bà Y toàn bộ dây chuyền về chế biến, sản xuất tinh bột mì tại DNTN YN tại Buôn K, xã Cư Pui, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, giá trị hợp đồng là 10 tỷ đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng bà Y đã chuyển trước cho ông S 2,5 tỷ đồng. Sau khi hoàn tất việc lắp đặt, chạy thử, bà Y yêu cầu ông S cung cấp hồ sơ, tài liệu chứng minh nguồn gốc, xuất xứ của dây chuyền cũng như báo cáo tác động môi trường để bà Y thế chấp vay tiền thanh toán cho ông S, nhưng ông S không có để cấp nên hợp đồng không tiếp tục thực hiện được. Vì vậy, bà Y khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng lắp đặt thiết bị dây chuyền, máy móc chế biến tinh bột mì giữa bà Y với ông S vô hiệu và buộc ông S phải trả cho bà Y số tiền gốc 2,5 tỷ đồng và tiền lãi. Bị đơn cho rằng Hợp đồng mua bán lắp đặt nhà máy sản xuất chế biến tinh bột mì là hợp đồng song vụ, ông S đã hoàn thành nghĩa vụ lắp đặt của mình, do đó bà Y phải thực hiện nghĩa vụ là thanh toán số tiền hợp đồng còn lại cho ông S là 7,5 tỷ đồng. Vì vậy, bị đơn có đơn phản tố đề nghị Tòa án công nhận Hợp đồng mua bán lắp đặt nhà máy sản xuất chế biến tinh bột mì được giao kết giữa ông Chềnh Mộc S và bà Nguyễn Thị Châu Y là có hiệu lực. Theo đó, buộc bà Y phải trả cho ông S số tiền hợp đồng còn lại là 7,5 tỷ đồng.