Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

HUYỆN LONG THÀNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

TỈNH Đ NAI

Bản án số: 65/2021/HS-ST Ngày: 07/4/2021

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH

Thành phần Hội Đ xét xử sơ thẩm gồm có:

  • Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Doãn Thị Hằng.

  • Các Hội thẩm nhân dân:

    + Bà Lê Thị Ánh S

    + Ông Nguyễn Đình Hùng

    Thư ký phiên tòa: Bà Trần Nhật Lệ, Thư ký Tòa án nhân dân huyện Long Thành.

    Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành tham gia phiên

    tòa: Bà Huỳnh Đức Xuân Thương, Kiểm sát viên.

    Ngày 07 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 14/2021/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2020/HSST- QĐ ngày 08 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2021/HSST-QĐ ngày 23 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

    1/ Nguyễn Thanh Đ, sinh năm 1990. Tại Hậu Giang Tên gọi khác: K.

    Nơi đăng ký thường trú: xã N, huyện M, tỉnh Hậu Giang. Nơi sinh sống: xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

    Nghề nghiệp: Thợ hồ. Trình độ học vấn: 9/12.

    Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt

    Nam.

    Con ông Hồ Công N, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị Thu B, sinh

    năm 1965.

    Vợ Nguyễn Kim L, sinh năm 1983. Có 2 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2017

    Tiền án, tiền sự: Không.

    Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/8/2020 đến ngày 19/8/2020 được huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn.

    2/ Huỳnh Văn S, sinh năm 1986. Tại Đồng Tháp Tên gọi khác: Không

    Nam.

    Nơi đăng ký thường trú: ấp H, xã H, huyện B, tỉnh Đồng Tháp. Nơi sinh sống: xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

    Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: 07/12.

    Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt

    Con ông Huỳnh Văn S sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị P sinh năm 1968.

    Vợ Lê Thị H, sinh năm: 1984. Có 01 con sinh năm 2006. Tiền án, tiền sự: Không.

    Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/8/2020 đến ngày 19/8/2020

    được huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn.

    3/ Phạm Văn N , sinh năm 1974. Tại Ninh Bình Tên gọi khác: Không.

    Nơi đăng ký thường trú: phường P, Tp. L, tỉnh Lâm Đồng. Nơi sinh sống: phường P, Tp. Lộc, tỉnh Lâm Đồng.

    Nghề nghiệp: Làm Rẫy. Trình độ học vấn: 5/12.

    Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt

    Nam.

    Con ông Phạm Văn Q (đã chết) và bà Bùi Thị D, sinh năm 1937. Có vợ là chị Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm: 1981.

    Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2006. Tiền án, tiền sự: Không.

    Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/08/2020 đến ngày 19/8/2020

    được huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn.

    4/Nguyễn Phùng Đ, sinh năm 1993. Tại Nghệ An. Tên gọi khác: Không

    Nơi đăng ký thường trú: xã N, huyện C, tỉnh Nghệ An.

    Nơi sinh sống: khu phố L, phường X, thị xã M, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: 09/12.

    Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt

    Nam. 1972.

    Con ông Nguyễn Phùng T, sinh năm 1969 và bà Lâm Thị H, sinh năm Chưa có vợ con.

    Tiền án, tiền sự: Không.

    Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/8/2020 đến ngày 19/08/2020

    được huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn.

    5/ Võ Văn T, sinh năm 1988. Tại Hà Tĩnh Tên gọi khác: Không

    Nơi thường trú: thôn T, xã D, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh.

    Nơi sinh sống: Khu phố H, phường X, thị xã M, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: 09/12.

    Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Võ Văn T, sinh năm 1961 và bà Phan Thị L, sinh năm 1961

    Chưa có vợ con

    Tiền án, tiền sự: Không.

    Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/8/2020 đến ngày 19/8/2020 được huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn.

  • Người làm chứng:

  1. Anh Đỗ Văn C, sinh năm 1990.

    Nơi cư trú: xã T, huyện T, tỉnh Đ Nai.

  2. Chị Nguyễn Kim L, sinh năm 1983. Nơi cư trú: xã B, huyện T, tỉnh Đ Nai.

(Các bị cáo có mặt, người làm chứng vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 20 giờ ngày 12/8/2020, Đ, S, T rủ nhau chơi đánh bạc dưới hình thức đánh bài tố thắng thua bằng tiền. Hình thức đánh như sau: một ván một người đặt 10.000 Đ, người thắng chia một người 03 lá bài, sau đó một người có quyền thêm tiền, mỗi người được 03 vòng, mức tố thấp nhất là 20.000 Đ, cao nhất là 100.000 Đ, ai không tố thì bỏ bài. Sau khi tố xong thì so bài với nhau, người nào có tổng số điểm trên 03 là bài cao nhất hoặc có 03 lá bài liên tiếp nhau hoặc có 03 là bài giống nhau thì thắng được nhận toàn bộ số tiền của ván bài đó. Đến 21 giờ cùng ngày thì Nguyễn Phùng Đ đến tham gia cùng, các bị cáo nâng mức tiền cược lên 20.000 Đ mỗi ván. Sau đó tiếp tục chơi đến 21 giờ 30 phút thì Đ không chơi nữa mà ngồi bên ngoài xem để Phạm Văn N vào chơi. Lúc 23 giờ 30 phút ngày 12/8/2020, lực lượng Công an xã Phước Bình tiến hành kiểm tra phòng trọ của Nguyễn Thanh Đ ấp 2, xã Phước Bình, huyện Long Thành phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thanh Đ, Huỳnh Văn S, Phạm Văn N, Nguyễn Phùng Đ, Võ Văn T đang đánh bạc dưới hình thức đánh bài cào tố, thắng thua bằng tiền.

Quá trình chơi, Đ sử dụng 1.000.000 Đ đánh bạc và thua 500.000 Đ, S sử dụng 1.040.000 Đ đánh bạc và thắng 500.000 Đ, N sử dụng 4.130.000 Đ đánh bạc và thua 100.000 Đ, Đ sử dụng 4.500.000 Đ đánh bạc và thắng

690.000 Đ, T sử dụng 1.500.000 Đ đánh bạc và thua 100.000 Đ.

Thu giữ trên chiếu bạc số tiền 830.00 Đ, thu giữ trên người của Đ

500.000 Đ, thu giữ của S 1.540.000 Đ, thu giữ của N 4.030.000 Đ, thu giữ của Đ 5.190.000 Đ, thu giữ của T 1.400.000 Đ, 01 bộ bài tây 52 lá, 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng Đ, 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, 01 điện thoại nhãn hiệu Mastel màu đen.

Vật chứng vụ án:

Số tiền 13.490.000 Đ thu giữ trong đó 12.990.000 Đ của các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc và 500.000 Đ đã trả lại cho Đ vì số tiền này không sử dụng vào đánh bạc.

01 bộ bài tây 52 lá (đã qua sử dụng) là công cụ sử dụng phạm tội.

01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng Đ, 01 điện thoại di động hiệu iphone màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen không liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra đã trả lại xong.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành vẫn bảo lưu quan điểm truy tố đối với các bị cáo tại Bản cáo trạng số: 21/CT- VKS ngày 08/01/2021, truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Huỳnh Văn S, Phạm Văn N, Nguyễn Phùng Đ, Võ Văn T về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015, sữa đổi bổ sung năm 2017.

Đề N áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s,i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sữa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt các bị cáo: Nguyễn Thanh Đ, Huỳnh Văn S, Phạm Văn N, Nguyễn Phùng Đ, Võ Văn T từ 4 tháng đến 6 tháng tù giam.

Đề N áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sữa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đề N Hội Đ xét xử Tịch thu số tiền 12.990.000 Đ thu giữ của các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc.

Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá (đã qua sử dụng) là công cụ sử dụng phạm tội.

01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng Đ, 01 điện thoại di động hiệu iphone màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen của các bị cáo không liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra đã trả lại xong nên đề N không xem xét.

Ý kiến của bị cáo: Các bị cáo thống nhất với bản cáo trạng và truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành. Xin giảm nhẹ mức hình phạt.

Lời nói sau cùng: Các bị cáo đều không nói gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng, Hội Đ xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Long Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tố tụng: Tại phiên tòa, người làm chứng đã được tống đạt giấy triệu tập theo quy định nhưng vẫn vắng mặt. Người làm chứng đã có đầy đủ lời khai nên Đại diện Viện kiểm sát đề N vẫn tiến hành xét xử nên Hội Đ xét xử

căn cứ Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt.

[3]. Các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Huỳnh Văn S, Phạm Văn N, Nguyễn Phùng Đ, Võ Văn T là những người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Căn cứ vào lời khai nhận tội của các bị cáo, cùng các tài liệu chứng cứ tại hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở xác định.

Lúc 23 giờ 30 phút ngày 12/8/2020 tại phòng trọ của Nguyễn Thanh Đ ở ấp 2, xã Phước Bình, huyện Long Thành, tỉnh Đ Nai Nguyễn Thanh Đ, Huỳnh Văn S, Phạm Văn N, Nguyễn Phùng Đ, Võ Văn T có hành vi đánh bạc bằng hình thức bài cào tố 03 lá thắng thua bằng tiền thì bị lực lượng Công an xã Phước Bình bắt quả tang. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 12.990.000 Đ

Quá trình điều tra và tại phiên tòa công khai hôm nay bị cáo các Nguyễn Thanh Đ, Huỳnh Văn S, Phạm Văn N, Nguyễn Phùng Đ, Võ Văn T đều thừa nhận số tiền sử dụng để đánh bạc như sau: Đ sử dụng 1.000.000 Đ đánh bạc và thua 500.000 Đ, S sử dụng 1.040.000 Đ đánh bạc và thắng

500.000 Đ, T sử dụng 1.500.000 Đ đánh bạc và thua 100.000 Đ, N sử dụng

4.130.000 Đ đánh bạc và thua 100.000 Đ, Đ sử dụng 4.500.000 Đ đánh bạc và thắng 690.000 Đ, với hình thức đánh bài cáo tố 03 lá thắng thua bằng tiền. Thu giữ trên chiếu bạc số tiền 830.00 Đ, thu giữ trên người của Đ

500.000 Đ, thu giữ của S 1.540.000 Đ, thu giữ của N 4.030.000 Đ, thu giữ của Đ 5.190.000 Đ, thu giữ của T 1.400.000 Đ.

Hành vi trên của các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Huỳnh Văn S, Phạm Văn N, Nguyễn Phùng Đ, Võ Văn T đã cấu thành tội Đánh bạc như bản Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố là đúng người đúng tội và đúng pháp luật.

Vai trò của từng bị cáo: Các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Huỳnh Văn S, Phạm Văn N, Nguyễn Phùng Đ, Võ Văn T là những người trực tiếp tham gia đánh bạc và sử dụng số tiền khác nhau như đã nêu ở trên để đánh bạc. Bị cáo Đ sử dụng phòng trọ của mình để cùng các bị cáo khác đánh bạc.

Hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Huỳnh Văn S, Phạm Văn N, Nguyễn Phùng Đ, Võ Văn T là ít nghiêm trọng nhưng đều là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội tại địa phương. Cờ bạc là một tệ nạn của xã hội thường dễ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng khác như cướp tài sản, trộm cắp tài sản, giết người…., Mặc dù các bị cáo vẫn nhận thức được hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích thu lợi và tước đoạt tiền bạc của nhau bằng con đường bất chính. Vì vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo. Tuy nhiên, cần xem xét cho các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Huỳnh Văn S, Phạm Văn N, Nguyễn Phùng Đ, Võ Văn T sau khi thực hiện hành vi phạm tội, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định

tại điểm s,i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Đ có bà ngoại - Nguyễn Thị T là người có công với Cách mạng được tặng Huân Chương kháng chiến hạng nhất nên cho bị cáo Đ được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sữa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào hành vi phạm tội của các bị cáo: Bi cáo Đ sử dụng

1.000.000 Đ đánh bạc, Bị cáo S sử dụng 1.040.000 Đ đánh bạc, bị cáo T sử dụng 1.500.000 Đ đánh bạc, bị cáo N sử dụng 4.130.000 Đ, bị cáo Đ sử dụng 4.500.000 Đ đánh bạc. Các bị cáo đều có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự, phạm tôi lần đầu thuộc trường hợp ít nhiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo Đ có bà ngoại là người có công với cách mạng. Do đó, áp dụng hình phạt tiền cho các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Huỳnh Văn S, Võ Văn T Phạm Văn N, Nguyễn Phùng Đ cũng là thỏa đáng.

[4]. Xử lý vật chứng:

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 12.990.000 Đ thu giữ sử dụng vào việc đánh bạc.

Tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá (đã qua sử dụng) là công cụ sử dụng phạm tội.

01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng Đ, 01 điện thoại di động hiệu iphone màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen của các bị can không liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra đã trả lại xong nên không xem xét.

[5]. Về án phí: Các bị cáo, mỗi người phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6]. Về kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Thanh Đ, Huỳnh Văn S, Phạm Văn N, Nguyễn Phùng Đ, Võ Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sữa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh Đ: Số tiền 30.000.000 Đ (ba mươi triệu Đ) Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm

2015, sữa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt:

  • Bị cáo Huỳnh Văn S: Số tiền 30.000.000 Đ (ba mươi triệu Đ)

    - Bị cáo Võ Văn T: Số tiền 30.000.000 Đ (ba mươi triêu Đ)

  • Bị cáo Phạm Văn N: Số tiền 40.000.000 Đ (bốn mươi triệu Đ)

  • Bị cáo Nguyễn Phùng Đ: Số tiền 40.000.000 Đ(bốn mươi triệu Đ)

    Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sữa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

    • Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 12.990.000 Đ(mười hai triệu) thu giữ sử dụng vào việc đánh bạc, theo biên lai thu tiền số 006895 ngày 15/01/2021 của chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành.

    • Tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá (đã qua sử dụng) là công cụ sử dụng phạm tội.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và N quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn Thanh Đ, Huỳnh Văn S, Phạm Văn N, Nguyễn Phùng Đ, Võ Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000Đ (hai trăm) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

  • Các Bị cáo;

  • VKSND huyện Long Thành;

  • TAND,VKSND tỉnh Đ Nai;

  • THA dân sự huyện Long Thành;

  • Cơ quan CSĐT Công an huyện Long Thành;

  • Cơ quan THA HS có thẩm quyền;

  • Nhà tạm giữ công an huyện Long Thành

  • Sở tư pháp;

  • Lưu HS, VP.

TM. HỘI Đ XÉT XỬ SƠ THẨM

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Doãn Thị Hằng

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 65/2021/HS-ST của TAND huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai

  • Số bản án: 65/2021/HS-ST
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 07/04/2021
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Đ và đồng bọn phạm tội đánh bạc
Tải về bản án