TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI TỈNH QUẢNG NGÃI | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
Bản án số: 65/2020/HS-ST Ngày 28-9-2020 |
|
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Hòa
Các Hội thẩm nhân dân: - Ông Hoàng Minh Tân
- Bà Nguyễn Thị Anh Thư
Thư ký phiên tòa: Bà Phan Thị Hạ Quyên, là Thư ký Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi tham gia phiên tòa: Ông Trần Hoàng Hưng - Kiểm sát viên.
Vào các ngày 25 và 28 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 68/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2020/TLST-HS, ngày 11 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:
Lâm Hoàng P (tên gọi khác: không), sinh ngày 10 tháng 02 năm 1985, tại: huyện SH, tỉnh Quảng Ngãi. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn GR, xã Sơn Thượng, huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi. Địa chỉ tạm trú : Tổ 07, phường NL, Tp.QN, tỉnh Quảng Ngãi. Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lâm Hoàng D, sinh năm 1953 và bà Phan Thị S, sinh năm 1957. Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 29/12/2003, bị Tòa án nhân dân thị xã Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đã chấp hành xong hình phạt tù, đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ, sau chuyển tạm giam từ ngày 04/6/2020 cho đến nay.
Bị cáo Lâm Hoàng P có mặt tại phiên tòa.
Bị hại:
+ Bà Dương Thị Anh Đ, sinh năm 1967; địa chỉ: Tổ 7, phường NL, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi. (có mặt)
+ Anh Nguyễn Dương Xuân T, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ 7, phường NL,
thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi.(vắng mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Nguyễn Tấn B, sinh năm 1965; địa chỉ: Tổ 7, phường NL, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi. (có mặt)
+ Anh Trương Quang C, sinh năm: 1980; địa chỉ: Tổ 2, phường NN, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi. (vắng mặt)
+ Ông Nguyễn H, sinh năm 1949; địa chỉ: Thôn ĐA, xã HT, huyện NH, tỉnh Quảng Ngãi. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Lâm Hoàng P làm thuê cho vợ chồng ông Nguyễn Tấn B, bà Dương Thị Anh Đ; cùng trú tại: Tổ 07, phường Nghĩa Lộ, Tp.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. Đêm ngày 01/6/2020, Lâm Hoàng P điều khiển xe môtô hiệu LONCINPLUS màu nâu, biển kiểm soát 76L3 – 2649 đến Bến xe tỉnh Quảng Ngãi để nhậu. Do nhậu không đủ tiền trả, P thế chấp xe mô tô nói trên cho ông Trương Quang C với số tiền 500.000 đồng, P sử dụng trả tiền nhậu và chơi đánh bạc dưới hình thức xóc bầu cua. Sau khi thua hết tiền, P nhờ ông C chở về nhà P ở hẻm đường Trần Quang Diệu, phường Nghĩa Lộ, Tp.Quảng Ngãi, đối diện chợ. Khi chở đến chợ ở đường Trần Quang Diệu, phường Nghĩa Lộ, Tp.Quảng Ngãi thì P xuống xe đi bộ về nhà còn ông C cũng đi về thì P đi bộ đến nhà bà Đ lén lút mở cửa cổng (P biết nhà bà Đ không khóa cửa cổng) đi vào sân lấy trộm 01 xe môtô hiệu CITI màu nâu, biển kiểm soát 76H1 – 4813 dắt xe ra ngoài cổng, P đóng cửa cổng lại rồi điều khiển xe xuống bến xe tỉnh Quảng Ngãi và thế chấp xe cho ông C được số tiền 1.400.000 đồng. Khi thế xe thì ông C có hỏi xe ở đâu mà có thì P nói xe của gia đình P, số tiền thế xe P đã đánh bầu cua và tiêu xài cá nhân hết. Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 02/6/2020, P tiếp tục nhờ ông C chở P về nhà. Cũng như lần trước khi chở đến chợ ở đường Trần Quang Diệu, P xuống xe đi bộ về nhà, còn ông C đi về thì P đến nhà bà Đ mở cửa cổng đi vào sân nhà lấy trộm 01 xe môtô hiệu YAMAHA SIRIUS FI màu xanh đen, biển kiểm soát 59G1 – 959.40 rồi điều khiển xuống bến xe tỉnh Quảng Ngãi gặp ông C và nhờ ông C đem xe đi thế chấp. Ông C có hỏi xe ở đâu như lần trước thì P nói xe của gia đình P nên ông C đem xe thế chấp cho ông Nguyễn H với số tiền 3.500.000 đồng. Khi nhận thế xe, ông H có hỏi xe ở đâu có thì ông C nói xe của thằng em do nhậu hết tiền nên nhờ ông C đem đi thế chấp giùm. Sau khi thế xe, ông C đưa cho P số tiền có được từ việc thế chấp xe; P đã dùng số tiền này đánh bầu cua và tiêu xài cá nhân hết. (BL: 53-68, 113-116).
Tại bản kết luận định giá tài sản số: 25/KL-HĐĐGTSTTTHS ngày 08/6/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Quảng Ngãi, kết luận: 01 (một) xe môtô hiệu YAMAHA SIRIUS FI màu xanh đen, biển kiểm soát 59G1 – 959.40 đã qua sử dụng được định giá 9.000.000đồng
(chín triệu đồng), 01 (một) xe môtô hiệu CITI màu nâu, biển kiểm soát 76H1 – 4813 đã qua sử dụng được định giá 4.500.000đồng (bốn triệu năm trăm ngàn đồng). Như vậy, tổng giá trị tài sản bị cáo Lâm Hoàng P chiếm đoạt là
13.500.000 đồng (mười ba triệu năm trăm ngàn đồng) (BL: 29-30).
Tại Cáo trạng số: 60/CT-VKS ngày 20/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi truy tố Lâm Hoàng P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lâm Hoàng P phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lâm Hoàng P từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về dân sự:
Người bị hại đã nhận lại tài sản bị mất trộm và không có yêu cầu gì về phần dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Ông Trương Quang C đã nhận lại số tiền 1.900.000 đồng từ gia đình bị cáo P, đây là số tiền mà ông C đưa cho P khi nhận thế chấp 01 (một) xe môtô hiệu LONCINPLUS màu nâu, biển kiểm soát 76L3-2649 và 01 xe môtô hiệu CITI màu nâu, biển số 76H1 – 4813, ông C không có yêu cầu gì về phần dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Ông Nguyễn H đã nhận lại số tiền 3.500.000 đồng từ gia đình bị can P, đây là số tiền mà ông H đưa cho ông C khi nhận thế chấp xe môtô hiệu YAMAHA SIRIUS FI màu xanh đen, biển số 59G1 – 95940, ông H không có yêu cầu gì về phần dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về xử lý vật chứng:
+ Đối với 01 (một) xe môtô hiệu LONCINPLUS màu nâu, biển kiểm soát 76L3-2649, quá trình điều tra đã tạm giao lại cho ông Nguyễn Tấn B chủ sở hữu xe là phù hợp theo quy định của pháp luật.
+ Đối với 01 (một) xe môtô hiệu CITI màu nâu, biển kiểm soát 76H1- 4813 và 01 (một) xe môtô hiệu YAMAHA SIRIUS màu xanh đen, biển kiểm soát 59G1-95940, quá trình điều tra đã trả lại cho các chủ sở hữu (bà Dương Thị Anh Đ và anh Nguyễn Dương Xuân T) là phù hợp theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng:
[1.1] Về hành vi tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi đã thực hiện là đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[1.2] Tại phiên tòa, người bị hại Nguyễn Dương Xuân T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trương Quang C đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy việc vắng mặt của anh T và anh C là không ảnh hưởng đến việc xét xử. Căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Nguyễn Dương Xuân T, anh Trương Quang C.
Về nội dung vụ án:
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lâm Hoàng P đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như nội dung vụ án đã nêu ở trên; lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của người bị hại, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định: Đêm ngày 01 và rạng sáng ngày 02 tháng 6 năm 2020, bị cáo Lâm Hoàng P đã lợi dụng sự sơ hở của chủ nhà và điều kiện đêm tối lén lút đột nhập vào sân nhà vợ chồng ông Nguyễn Tấn B, bà Dương Thị Anh Đ; địa chỉ: Tổ 07, phường Nghĩa Lộ, Tp.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi trộm cắp 01 xe môtô hiệu CITI màu nâu, biển kiểm soát 76H1 – 4813 của bà Dương Thị Anh Đ và 01 xe môtô hiệu YAMAHA SIRIUS FI màu xanh đen, biển kiểm soát 59G1 – 959.40 của anh Nguyễn Dương Xuân T. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 13.500.000 đồng (mười ba triệu năm trăm ngàn đồng).
Bị cáo Lâm Hoàng P là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Bị cáo biết rõ việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Hành vi phạm tội của bị cáo Lâm Hoàng P là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an, nếp sống văn hóa xã hội. Ngoài ra, bị cáo còn là người có nhân thân xấu: Năm 2003, đã bị xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và đã chấp hành xong hình phạt tụ, đã được xóa án tích nhưng lại không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm, tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội nhiều lần. Vì vậy, cần phải xét xử bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội; đồng thời, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục đối với bị cáo.
Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Bị cáo Lâm Hoàng P đã tích cực tác động gia đình bồi thường thiệt hại, khắc phụ hậu quả cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Người bị hại Dương Thị Anh Đ xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giám nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Đêm ngày 01 rạng sáng ngày 02 tháng 6 năm 2020, bị cáo Lâm Hoàng P đã 02 (hai) lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đối với 02 (hai) xem môtô tại 02 (hai) thời điểm khác nhau. Trong 02 (hai) lần trộm cắp đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Vì vậy, cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Về dân sự:
Người bị hại đã nhận lại tài sản (xe) bị mất trộm và không có yêu cầu gì về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trương Quang C và ông Nguyễn H đều đã nhận lại số tiền đã đưa cho bị cáo khi thế xe. Cả anh C và ông H đều không có ý kiến, yêu cầu gì về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về vật chứng:
+ Đối với 01 (một) xe môtô hiệu LONCINPLUS màu nâu, biển kiểm soát 76L3-2649, quá trình điều tra đã giao lại cho ông Nguyễn Tấn B (chủ sở hữu) là phù hợp theo quy định của pháp luật.
+ Đối với 01 (một) xe môtô hiệu CITI màu nâu, biển kiểm soát 76H1- 4813 và 01 (một) xe môtô hiệu YAMAHA SIRIUS màu xanh đen, biển kiểm soát 59G1-95940, quá trình điều tra đã trả lại cho các chủ sở hữu là phù hợp theo quy định của pháp luật.
Về các nội dung khác có liên quan:
Đối với hành vi nhận thế chấp từ bị cáo Lâm Hoàng P 01 xe môtô hiệu CITI màu nâu, biển kiểm soát 76H1-4813 và giúp P đem đi thế chấp 01 xe môtô hiệu YAMAHA SIRIUS màu xanh đen, biển kiểm soát 59G1-95940 cho ông Nguyễn H, của anh Trương Quang C thì P nói với anh C 02 xe mô tô này là của gia đình P, còn anh C nói với ông H là xe của thằng em nhậu hết tiền nhờ đem đi thế chấp giùm, nên anh C, ông H không biết 02 xe mô tô trên do P trộm cắp mà có. Do đó xác định hành vi của anh Trương Quang C, ông Nguyễn H không cấu thành tội “Tiêu thụ tàiquy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật.
Đối với việc anh Trương Quang C đã 02 lần chở bị cáo P về, sau đó P đi bộ đến nhà bà Đ để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Anh C không biết P về để đến nhà bà Đ lấy trộm tài sản nên không xử lý đồng phạm đối với anh C về tội
“Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật.
Đối với hành vi của Lâm Hoàng P đã thế chấp 01 (một) xe môtô hiệu LONCINPLUS màu nâu, biển số 76L3 – 2649, do anh Nguyễn Tấn B đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Quá trình điều tra xác định ông B đã cho P chiếc xe trên để sử dụng làm phương tiện đi lại và giao hàng cho gia đình ông B nhưng chưa làm thủ tục chuyển nhượng nên xác định hành vi của P không cấu thành tội “Lạmquy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật.
Trong quá trình điều tra bị cáo Lâm Hoàng P còn có khai nhận hành vi đánh bạc dưới hình thức xóc bầu cua, tuy nhiên không xác định được bị cáo đánh bạc với ai, số tiền dùng đánh bạc là bao nhiêu. Vì vậy, không có căn cứ để xử lý hành vi đánh bạc của P là phù hợp với quy định của pháp luật.
Về án phí: Bị cáo Lâm Hoàng P phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về căn cứ truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi là phù hợp với những nhận định trên của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Lâm Hoàng P phạm tội “Trộm cắp tài sản ”. Xử phạt bị cáo Lâm Hoàng P 01 (một) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/6/2020.
Tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án đối với bị cáo Lâm Hoàng P để đảm bảo thi hành án.
Về dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản bị trộm cắp (xe mô tô); những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được bồi thường tiền thế chấp xe và đều không có ý kiến, yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Buộc bị cáo Lâm Hoàng P phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười) ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười
lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Hòa |
Bản án số 65/2020/HS-ST ngày 12/01/2021 của TAND TP. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
- Số bản án: 65/2020/HS-ST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 12/01/2021
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND TP. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Trộm cắp tài sản