Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TỈNH QUẢNG NGÃI Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Bản án số: 63/2024/HS-PT Ngày 07-6-2024

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Mỹ Giang. Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Năm.

Ông Lê Quang Toại.

Thư ký phiên tòa: Ông Trần Đại Nghĩa – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tham gia phiên tòa:

Bà Nguyễn Thị Ngọc Thúy – Kiểm sát viên.

Trong các ngày 06, 07 tháng 6 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi; Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 71/2024/TLPT-HS ngày 10 tháng 4 năm 2024 do có kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại chị Lê Thị N đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2024/HS-ST ngày 06/3/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

Bị cáo bị kháng cáo:

Nguyễn Hoài V, sinh ngày 21/4/1987 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi đăng ký thường trú: Tổ dân phố A, phường P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố D, Phường N, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Làm nông và sửa chữa điện cơ; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M (Chết) và bà Phạm Thị Ả; vợ: Nguyễn Thị Thu H, có 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/12/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Nguyễn Thế H1, sinh năm 1985 (Chết). Người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Thế H1:

  1. Ông Nguyễn Tiến S, sinh năm 1960 (Cha của bị hại); vắng mặt

  2. Bà Võ Thị M1, sinh năm 1963 (Mẹ của bị hại); vắng mặt

  3. Chị Lê Thị N, sinh năm 1987 (Vợ của bị hại); có mặt

Cùng nơi cư trú: Tổ dân phố A, phường P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Tiến S và bà Võ Thị M1: Ông Dương Thanh D, sinh năm 1969; nơi cư trú: Tổ dân phố E, Phường N, thịxã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Lê Thị N: Bà Trần Thị Kim Q, là Luật sư Công ty L và Cộng sự, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H; địa chỉ: 2 L, khu phố D, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

  1. Cháu Nguyễn Thế K, sinh ngày 21/10/2009 (con của bị hại);

  2. Cháu Nguyễn Lê Kiều T, sinh ngày 15/7/2018 (con của bị hại)

Người đại diện hợp pháp cho cháu K và cháu T: Chị Lê Thị N, sinh năm 1987 (là mẹ của cháu K và cháu T); có mặt.

Cùng nơi cư trú: Tổ dân phố A, phường P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi.

- Người làm chứng:

  1. Bà Tô Thị P, sinh năm 1959; nơi cư trú: Khu dân cư M, tổ dân phố A,phường P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt.

  2. Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1999; nơi cư trú: Khu dân cư M, tổ dânphố A, phường P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt.

  3. Bà Nguyễn Thị P1, sinh năm 1956; nơi cư trú: Tổ dân phố A, phườngP, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt

  4. Ông Nguyễn Minh B, sinh năm 1979; nơi cư trú: Thôn V, xã P, thị xãĐ, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt

  5. Ông Nguyễn Minh C, sinh năm 1999; nơi cư trú: Thôn V, xã P, thị xãĐ, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt

  6. Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1989; nơi cư trú: Tổ dân phố A,phường P, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt

  7. Bà Phạm Thị Ả, sinh năm 1956; nơi cư trú: Tổ dân phố A, phường P,thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt

  8. Bà Huỳnh Thị T2, sinh năm 1953; nơi cư trú: Tổ dân phố A, phường P,thị xã Đ, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào trưa ngày 22/10/2022, Nguyễn Thế H1 đem 01 cái mô tơ xay bột bị hỏng đến nhà của Nguyễn Hoài V để sửa. Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 24/10/2022, V sửa xong nên điện thoại cho H1 thì Lê Thị N (là vợ của H1) nghe điện thoại, V nói tiền sửa mô tơ là 320.000đồng. Sau khi nghe điện thoại thì N nói lại nội dung này cho ông Nguyễn Tiến S và bà Võ Thị M1 (là cha, mẹ đẻ của

H1) biết. Sau đó, ông Nguyễn Tiến S đến nhà V lấy mô tơ đem về nhưng ông S chưa trả tiền cho V, nói để đầu giờ chiều H1 sẽ đem tiền đến trả.

Đến đầu giờ chiều ngày 24/10/2022, V chở con đi học, sợ H1 lên nhà không gặp nên V điện thoại cho H1 thì N nghe điện thoại và nói “Ông H1 đi ăn giỗ chưa về”. Sau khi chở con đi học, trên đường đi về V có ghé vào nhà H1 để lấy tiền. Khi vào nhà H1 thì V gặp bà M1, V nói “Thím ơi cho con lấy tiền sửa máy xay bột” bà M1 nói lại “Có mấy trăm ngàn mà mày làm gì ghê vậy”. V nói tiếp “Ở Đức Phổ người ta không cho nợ”, bà M1 vô nhà lấy tiền trả cho V, V lấy 300.000đồng, bớt 20.000đồng và nói “Lần sau đồ gì hư thì đừng có đem lên sửa nữa, tôi không làm nữa đâu”, rồi V đi về. Chiều tối, H1 về nhà thì nghe người trong gia đình kể lại sự việc như trên nên H1 nói đến nhà V để nói chuyện.

Khoảng hơn 20 giờ 00 phút, ngày 24/10/2022, H1 điều khiển xe mô tô 76H1-46465 đến nhà của V và để xe ở sân (sân cỏ). Lúc đó, V đang ngồi ở phòng khách bấm điện thoại (xem facebook,...), vợ của V là Nguyễn Thị Thu H đang ở phía sau nhà, con của V ở nhà của bà Phạm Thị Ả (mẹ đẻ của V), nhà của V sát bên nhà của bà Ả; cửa phòng khách nhà V đóng chốt. Khi đến nhà V thì H1 đập cửa và chửi lớn tiếng “Thằng V đâu, đ... mẹ mày, ... mày ra đây, ...", V mở cửa ra thấy Nguyễn Thế H1 đứng trên hè ngay cửa trước nhà và đang chửi V nên V nói “mày xỉn rồi mày về đi, mai lên nói chuyện”, rồi V đóng cửa lại.

Nguyễn Thế H1 không về mà vẫn tiếp tục chửi “...có mấy trăm ngàn mà mày sống chó,.. mày ở đây không yên,... ". V nghe vậy nên mở cửa ra nói với H1 “tao sống chó thì mày về mày hỏi mẹ mày á...”; H1 xông vào dùng tay đánh V, V dùng tay đỡ và đánh 02 đến 03 cái vào vùng mặt của H1. Lúc đó, Nguyễn Thị Thu H đứng gần bên nhìn thấy hai người đánh nhau nên nói “thôi anh, thôi anh, ...” và kéo V ra thì V và H1 không đánh nhau nữa.

H1 đi bộ từ hè nhà V ra vị trí dựng xe mô tô 76H1-46465 ở sân cỏ. Khi H1 vừa đến gần vị trí chiếc xe mô tô thì H1 tự ngã ngửa xuống sân cỏ, trong khi ngã H1 nắm tay vào phần đuôi xe mô tô nên kéo xe mô tô ngã theo. H1 nằm bất tỉnh tại chỗ. V thấy H1 nằm im nên điện thoại vào số mà lúc trưa V gọi thì gặp N (vợ H1), V nói “Bà vô chở thằng T3 về chứ nó say ngã ở nhà tôi nề” (T3 là tên thường gọi của H1) và V lấy điện thoại di động quay video lại vị trí nơi H1 nằm. V đến kêu H1 dậy nhưng thấy H1 nằm im nên V dựng xe của H1 lên và đi lấy mũ bảo hiểm để chở H1 đi bệnh viện. Lúc này có anh Nguyễn Văn T1 (nhà gần nhà V) đến và lấy xe 76H1-46465 chở H1 ngồi giữa, V ngồi sau giữ đến Bệnh viện đa khoa khu vực Đặng Thùy T4, sau đó chuyển đến Bệnh viện đakhoa tỉnh Q và tiếp tục chuyển đến Bệnh viện Đ. Đến khoảng 03 giờ 00 phút, ngày 26/10/2022 thì H1 chết.

Kết luận giám định pháp y về tử thi số 108/TT ngày 11/11/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Q phần kết luận nêu:

  • Vùng đỉnh chẩm sưng nề nhẹ, bề mặt da có vết bầm màu tím trong diện kt (10x3)cm.

  • Tổ chức dưới da vùng chẩm (tương ứng với dấu vết sưng nề ở vùng đỉnh chẩm đã mô tả bên ngoài) bầm tụ máu trong diện kt (8x5)cm.

đông.

  • Hai bán cầu đại não xuất huyết, trong não thất có máu lỏng và máu

  • Đốt sống cổ C2, C3, C4 có đường vỡ dọc đốt sống kt (6x0,3)cm, để lộ

tủy sống dập nát phòi ra ngoài qua đường vỡ.

- Xét nghiệm vi thể mô bệnh học, kết luận: xuất huyết trong nhu mô não và màng não.

Nguyên nhân chết: chấn thương sọ não gây xuất huyết trong nhu mô não và màng não + chấn thương gây vỡ đốt sống C2, C3, C4.

Thương tích do vật tày gây nên.

Nhận thấy nội dung kết luận nêu trên chưa nêu rõ về cơ chế tác động tạo nên các chấn thương dẫn đến Nguyễn Thế H1 chết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đ đã ra quyết định trưng cầu Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng giám định nguyên nhân chết của Nguyễn Thế H1 (giám định qua hồ sơ).

Kết luận giám định tử thi qua hồ sơ số: 767/KL-KTHS ngày 15/5/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng trong phần kết luận có nêu:

“1. Các kết quả chính

- Các tổn thương trên tử thi:

+ Sưng nề, bầm tụ máu dưới da vùng đỉnh chẩm

+ Chấn thương sọ não: xuất huyết dưới nhện rầm rộ hai bán cầu, tụ máu não thất.

+ Không thấy hình ảnh vỡ dọc từ C2 đến C4 và hình ảnh giập nát tủy cổ trên các ảnh gửi giám định.

+ Vi thể: xuất huyết trong nhu mô não và màng não; cơ tim bình thường.

2. Kết luận:

Cơ chế hình thành tổn thương:

+ Tổn thương sưng nề, tụ máu dưới da vùng đỉnh chẩm do vùng đỉnh chẩm của nạn nhân tác động tương hỗ với vật tày diện rộng tạo nên.

+ Chấn thương sọ não làm xuất huyết dưới nhện rầm rộ hai bán cầu, xuất huyết trong não thất là do lực tác động vào vùng đỉnh chẩm làm đại não chuyển động va đập vào bản trong hộp sọ và co giãn đột ngột gây đứt các mạch máu.

  • Chấn thương sọ não là nguyên nhân tử vong của ông Nguyễn Thế H1.

  • Trường hợp Nguyễn Thế H1 ngã xuống nền đất (có đặc điểm như ghi nhận tại hiện trường vụ án) đập vùng đỉnh chẩm xuống nền đất gây ra được tổn thương tụ máu dưới da vùng đỉnh chẩm và chấn thương sọ não (xuất huyết dưới nhện, tụ máu não thất).

Qua xem xét kết quả của hai kết luận giám định nêu trên xét thấy có sự mâu thuẫn trong việc xác định nạn nhân Nguyễn Thế H1 bị chấn thương gãy, vỡ đốt sống cổ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đ tiếp tục trưng cầu Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng tiếp tục giám định bổ sung đối với nội dung trên.

Kết luận giám định bổ sung số: 1255/KL-KTHS ngày 07/7/2023 của Phân Viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Nạn nhân Nguyễn Thế H1 không bị gãy các đốt sống cổ.

Ngày 30/01/2024 Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ có văn bản số 37/TA- HS yêu cầu Trung tâm pháp y tỉnh Q giải thích kết luận giám định.

Tại văn bản số 33/TTPY ngày 06/02/2024, Trung tâm pháp y tỉnh Q giải

thích:

  1. Việc khám nghiệm tử thi của Trung tâm pháp y tỉnh Q là việc khám

    nghiệm trực tiếp trên tử thi có sự chứng kiến của Hội đồng khám nghiệm tử thi, được sự thống nhất và ghi nhận đầy đủ trong biên bản khám nghiệm tử thi và không có ý kiến khác bảo lưu. Việc giám định bổ sung tử thi qua hồ sơ của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, Trung tâm pháp y tỉnh Q không có ý kiến về kết luận này.

  2. Đốt sống cổ C2, C3, C4 của Nguyễn Thế H1 có đường vỡ dọc đốt sống kt(6x0,3)cm, để lộ tủy sống dập nát phòi ra ngoài qua đường vỡ, chúng tôi không xác định được thời điểm xảy ra chấn thương này có trước hay có sau việc ông Nguyễn Thế H1 tự di chuyển từ trong hè nhà của ông Nguyễn Thế V1 ra sân đất (khoảng cách hơn 03 mét).

  3. Cơ chế hình thành thương tích: Đốt sống cổ C2, C3, C4 của Nguyễn Thế H1 có đường vỡ dọc đốt sống kt(6x0,3)cm, để lộ tủy sống dập nát phòi ra ngoài qua đường vỡ do vật tày tác động.

Bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2024/HS-ST ngày 06/3/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hoài V phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng: Điểm a khoản 4 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoài V 07 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngàytạm giam (Ngày 28/12/2022).

Ngoài ra, còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, phần án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 05/10/2023, đại diện hợp pháp của bị hại bà Lê Thị N kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra bổ sung.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Lê Thị N giữ nguyên nội dung kháng cáo.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và lời khai người làm chứng, phù hợp với cơ chế hình thành thương tích mà kết luận giám định của Trung tâm pháp y tỉnh Q và của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng và các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án nên có cơ sở khẳng định: Vào khoảng 20 giờ ngày 24/10/2022, khi anh H1 đến nhà của bị cáo V để nói chuyện và xảy ra cãi vã, xô xát; bị cáo V có dùng tay đánh 02 đến 03 cái vào vùng mặt của anh H1 ngay tại hè nhà của bị cáo. Sau khi bị đánh thì anh H1 bước xuống hè nhà ra chỗ dựng xe thì ngã ngửa xuống sân, nằm bất tỉnh tại chỗ và chết sau đó.

Như vậy, bị cáo là người trực tiếp dùng nắm đấm đánh vào vùng mặt anh H1 và liền sau đó anh H1 ngã đập đầu xuống nền đất dẫn đến chết. Tuy nhiên, trước khi sự việc xảy ra thì giữa bị cáo và anh H1 không có mâu thuẫn gì, bị cáo cũng không có động cơ, mục đích là tước đoạt tính mạng của anh H1. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp là chỉ dùng tay đánh vào mặt anh H1 trong trạng thái tâm lý bức xúc khi bị anh H1 đến nhà chửi bới. Ngoài ra, sau khi thấy anh H1 ngã ra sân, nằm bất động thì bị cáo V đã cùng với anh Nguyễn Văn T1 chở anh H1 đi cấp cứu nên có căn cứ xác định việc anh Nguyễn Thế H1 chết là ngoài ý thức chủ quan của bị cáo V.

Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội cố ý gây thương tích là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Đối với nội dung kháng cáo cho rằng việc giám định lại của phân viện khoa học hình sự tại Đà Nẵng là không có sơ sở:

Căn cứ vào kết quả khám nghiệm tử thi của anh Nguyễn Thế H1 do Hội đồng khám nghiệm thực hiện, khi mổ tử thi xác định tại đốt sống cổ C2, C3, C4 bị nứt vỡ để lộ tủy sống lòi ra ngoài ống tủy. Đồng thời, Trung tâm pháp y tỉnhQ giải thích tại văn bản số 33/TTPY ngày 06/02/2024 “Việc khám nghiệm tử thiTrung tâm pháp y tỉnh Q là việc khám nghiệm trực tiếp trên tử thi có sự chứng kiến của Hội đồng khám nghiệm tử thi, được sự thống nhất và ghi nhận đầy đủ trong biên bản khám nghiệm tử thi và không có ý kiến khác bảo lưu. Như vậy, trong tất cả các kết luận của cơ quan giám định có thẩm quyền việc bị hại bị chấn thương sọ não và dập đốt sống cổ C2, C3, C4 đều do vật tày tác động. Qua quá trình điều tra, truy tố, xét xử có căn cứ chứng minh bị cáo Nguyễn Hoài V là người trực tiếp dùng tay đánh vào mặt người bị hại làm cho anh H1 ngã đập đầu xuống nền đất dẫn đến chết. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội cố ý gây thương tích là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Đối với nội dung kháng cáo không chấp nhận việc Tòa tuyên trả lại camera và điện thoại cho bị cáo:

Cơ quan điều tra thu giữ 01 (một) điện thoại di động hiệu S2, màu trắng và 01 (một) camera có chữ Wireless; model 308D, Power: DC5V < 1,5A; ID: 28430069 đúng quy định của pháp luật. Khi tiếp nhận camera thể hiện camera không có thẻ nhớ, cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu giám định theo quy định pháp luật, kết quả giám định Phòng K1 Công an tỉnh đã trích xuất dữ

liệu trong điện thoại di động và in kèm phụ lục đồng thời trích sao vào đĩa DVD kèm theo hồ sơ vụ án nên việc người kháng cáo cho rằng bị cáo Nguyễn Hoài V đã tiêu huỷ chứng cứ gây án là không có căn cứ. Camera và điện thoại di động của Nguyễn Hoài V không phải công cụ, phương tiện phạm tội, Tòa án sơ thẩm trả lại đồ vật trên cho bị cáo là đúng quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với lý do kháng cáo cho rằng chị H là vợ bị cáo nên lời khai của chị H là không có căn cứ: Cơ quan tiến hành tố tụng không sử dụng duy nhất lời khai của bị cáo V và chị H để làm căn cứ giải quyết vụ án mà còn căn cứ vào lời khai những người tham gia tố tụng khác phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập, chứng minh được hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hoài V nên việc người kháng cáo cho rằng chị H là vợ bị cáo có thể thông cung với bị cáo và lời khai này không có căn cứ là suy diễn.

Đối với nội dung kháng cáo cần điều tra làm rõ để loại trừ việc H1 bị ngã xe do uống rượu bia. Tại Bản kết luận giám định số: 1015/KL-KTHS ngày 30/11/2022 của Phòng K1 tại Công an tỉnh Q, kết luận mẫu máu ghi thu giữ của Nguyễn Thế H1 không có nồng độ cồn. Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, Cơ quan tiến hành tố tụng không xác định anh Nguyễn Thế H1 ngã xe do sử dụng rượu bia.

Đối với nội dung kháng cáo cần xác định lại ai là người đã nẹp cổ cho Nguyễn Thế H1, nẹp cổ từ khi nào và lý do vì sao phải nẹp cổ: Quá trình cấp cứu đối với anh Nguyễn Thế H1 chẩn đoán bị chấn thương sọ não, chấn thương cột sống cổ nên theo chỉ định phải nẹp cổ cho bệnh nhân Nguyễn Thế H1 và tại mục phương pháp điều trị, nhân viên y tế đã ghi rõ dùng băng để nẹp phần cổ của anh H1 và tiếp tục đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Q cấp cứu.

Tại cấp phúc thẩm chị Lê Thị N kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm, trả hồ sơ điều tra bổ sung để làm sáng tỏ từng chi tiết hồ sơ nhằm hạn chế oan sai và đưa ra nhiều lý do kháng cáo nhưng nhưng không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì mới nên không có căn cứ chấp nhận nội dung kháng cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận nội dung kháng cáo của chị Lê Thị N, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 08/2024/HS-ST ngày 06/3/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ.

Luận cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Lê Thị N

Luật sư Trần Thị Kim Q:

Vụ án có một số tình tiết chưa được làm rõ, khoảng cách từ nhà bị hại H1 đến nhà bị cáo V từ 700 đến 800 mét, khi đi thì bị hại H1 rất tỉnh táo, khi đến nhà V thì H1 chỉ nói “V ơi, V ơi”, mục đích H1 đến nhà bị cáo V chỉ để làm sáng tỏ việc đòi tiền chứ không hề có ý định đánh nhau với bị cáo V. H1 không có hành vi trái pháp luật nào để bị cáo V đánh H1, nếu sự việc đánh nhau không có chị H can ngăn thì bị cáo V có thể sẽ không ngừng lại hành vi đánh H1.

Cấp sơ thẩm chưa làm rõ tại sao khi H1 té ngã bị cáo không ngay lập tức đưa H1 đi cấp cứu mà phải dùng điện thoại quay lại hiện trường. Hồ sơ vụ án

còn nhiều mâu thuẫn, có nhiều Bản kết luận giám định nhưng chưa làm rõ kết luận giám định nào là chính xác, gia đình bị hại đồng ý với kết quả giám định ban đầu của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Q. Chưa làm rõ việc bị hại có sử dụng rượu bia khi đến nhà bị cáo V hay không? Tại sao Bệnh viện Đặng Thùy T4 lại nẹp cổ H1? Việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên trả lại điện thoại và camera lại cho bị cáo V là không đúng vì đây là chứng cứ quan trọng của vụ án.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung kháng cáo của bà Lê Thị N, hủy bản án hình sự sơ thẩm số 08/2024/HS-ST ngày 06/3/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ để điều tra hành vi “Giết người” của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

  1. Hành vi của bị cáo:

    Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 24/10/2022, khi anh Nguyễn Thế H1 đến nhà của bị cáo Nguyễn Hoài V để nói chuyện về việc V đến nhà H1 đòi tiền sửa mô tơ xay bột thì giữa H1 và V xảy ra cãi vã, xô xát; bị cáo V có dùng tay đánh 02 đến 03 cái vào vùng mặt của anh H1, khi vợ của V là chị Nguyễn Thị Thu H can ngăn và kéo V ra thì V và H1 mới không đánh nhau nữa, H1 đi bộ từ hè nhà V ra vị trí dựng xe mô tô 76H1-46465 ở sân (sân cỏ) nhà V thì ngã ngửa xuống sân cỏ, nằm bất tỉnh tại chỗ. Bị cáo V và anh Nguyễn Văn T1 chở anh H1 đến Bệnh viện Đ1 cấp cứu, sau đó chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Q và tiếp tục chuyển đến Bệnh viện Đ. Đến khoảng 03 giờ 00 phút, ngày 26/10/2022 thì anh H1 chết.

  2. Xét kháng cáo của chị Lê Thị N đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại về tội nặng hơn, cụ thể là tội “Giết người”, Hội đồng xét xử thấy rằng:

    [2.1] Tại giai đoạn sơ thẩm, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đ đã nhiều lần ra Quyết định trưng cầu giám định nguyên nhân chết của bị hại, cơ chế tác động tạo nên các chấn thương dẫn đến chết của bị hại. Kết luận giám định pháp y về tử thi số 108/TT ngày 11/11/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Q, kếtTrung tâm pháp y tỉnh Q là việc khám nghiệm trựcTrung tâm pháp y tỉnh Q kết luận nguyên nhân chết của bị hại là có căn cứ.

    [2.2] Xét nguyên nhân gây ra thương tích của anh Nguyễn Thế H1: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hoài V khai nhận khi Nguyễn Thế H1 đến nhà của V thì H1 có hành vi chửi bới và xông vào đánh V. Do đó, có căn cứ xác định trước khi đến nhà của bị cáo V thì anh Nguyễn Thế H1 chưa có các thương tích trên cơ thể. Quá trình điều tra, bị cáo V và anh Nguyễn Văn T1 đều

    khẳng định khi chở H1 đi cấp cứu không xảy ra tai nạn hay sự kiện gì gây thương tích cho Nguyễn Thế H1. Do đó, có căn cứ xác định các thương tích của Nguyễn Thế H1 chỉ xảy ra trong thời gian H1 ở nhà của bị cáo Nguyễn Hoài V. Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo V thừa nhận có dùng tay đánh vào mặt của anh H1 từ 02 đến 03 cái; bị cáo V và chị Nguyễn Thị Thu H (vợ của V) đều khẳng định khi H1 đến nhà của V thì chỉ có V là người đánh anh H1, từ lúc H1 đến nhà của V đến lúc H1 ngã ra sân cỏ thì anh H1 không bị ngã hay va đập vào vật gì.

    [2.3] Từ nhận định như trên, có căn cứ xác định bị cáo Nguyễn Hoài V đánh anh Nguyễn Thế H1 dẫn đến Nguyễn Thế H1 ngã ở sân nhà bị cáo V, gây ra các thương tích trên cho H1, dẫn đến Nguyễn Thế H1 chết. Tuy nhiên, giữa bị cáo Nguyễn Hoài V và Nguyễn Thế H1 không có mâu thuẫn gì nên bị cáo V không có động cơ, mục đích tước đoạt tính mạng của anh Nguyễn Thế H1. Nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo V gây thương tích cho anh H1 là do anh H1 đến nhà bị cáo V chửi bới, làm cho bị cáo bức xúc nên mới xảy ra sự việc đánh nhau. Khi thực hiện hành vi đánh anh Nguyễn Thế H1 thì bị cáo V chỉ dùng tay, không dùng hung khí hay vật gì nguy hiểm để đánh H1. Sau khi thấy H1 ngã ra sân cỏ, nằm bất động thì bị cáo V không bỏ mặc hậu quả xảy ra mà đã cùng với anh Nguyễn Văn T1 chở H1 đi cấp cứu, bị cáo không mong muốn hậu quả chết người xảy ra nên có căn cứ xác định việc Nguyễn Thế H1 chết là nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo Nguyễn Hoài V.

    [2.4] Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, chị Lê Thị N cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào có cơ sở để chứng minh hành vi của bị cáo Nguyễn Hoài V có dấu hiệu của tội “Giết người” quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự.

    Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Hoài V về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

  3. Đối với việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên trả lại điện thoại Samsung, màu trắng và 01 (một) camera có chữ Wireless cho bị cáo Nguyễn Hoài V thì thấy rằng: Đối với điện thoại di động Samsung kèm thẻ nhớ: Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định, trích xuất nội dung video và hình ảnh lưu trữ trong điện thoại ra đĩa và bản ảnh. Đối với Camera W, Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định nhưng không có dữ liệu hình ảnh, không có gắn thẻ nhớ. Xét thấy đây là tài sản của bị cáo Nguyễn Hoài V, không phải công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, dữ liệu đã được trích ra đĩa và bản ảnh nên Tòa án cấp sơ thẩm tuyên trả lại camera và điện thoại cho bị cáo Nguyễn Hoài V là phù hợp với quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

  4. Về việc Cơ quan điều tra lấy lời khai của chị Nguyễn Thị Thu H là vợ bị cáo Nguyễn Hoài V. Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai của chị Nguyễn Thị Thu H là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra không sử dụng duy nhất lời khai của bị cáo V và chị H để làm căn cứ giải quyết vụ án mà còn căn cứ vào lời khai những người tham gia tố tụng khác phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập, chứng minh được hành vi phạm tội của bị

    cáo Nguyễn Hoài V nên việc người kháng cáo cho rằng chị H là vợ bị cáo có thể thông cung với bị cáo là không có căn cứ.

  5. Kết luận giám định số: 1015/KL-KTHS ngày 30/11/2022 của PhòngK1 Công an tỉnh Q, kết luận mẫu máu ghi thu giữ của Nguyễn Thế H1 không có nồng độ cồn. Quá trình điều tra, không có căn cứ xác định anh Nguyễn Thế H1 ngã xe do sử dụng rượu bia. Nguyên nhân chết của Nguyễn Thế H1 là do bị cáo Nguyễn Hoài V gây ra như phần nhận định tại mục [2] của bản án này.

  6. Khi bị cáo V cùng anh T1 đưa anh H1 vào cấp cứu tại Bệnh viện Đ1, trong quá trình cấp cứu chẩn đoán anh H1 bị chấn thương sọ não, chấn thương cột sống cổ nên Bệnh viện Đặng Thùy T4 tiến hành cấp cứu nẹp cổ cho bị hại để cấp cứu, điều trị thể hiện tại mục phương pháp điều trị (Bút lục số 105).

  7. Xét thấy những nội dung kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại chị Lê Thị N là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

  8. Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

  9. Đề nghị của Luật sư không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

  10. Về án phí: Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

  11. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

  1. Không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại chị Lê Thị N. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 08/2024/HS-ST ngày 06/3/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

    Áp dụng: Điểm a khoản 4 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

    Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoài V 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam (Ngày 28/12/2022).

  2. Về án phí: Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

  3. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

  4. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

  • VKSND tỉnh Quảng Ngãi;

  • Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ngãi;

  • VKSND, TAND thị xã Đức Phổ;

  • Công an thị xã Đức Phổ;

  • THA dân sự thị xã Đức Phổ;

  • Bị cáo;

  • Người tham gia tố tụng;

  • Lưu hồ sơ.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

(Đã ký)

Lê Thị Mỹ Giang

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 63/2024/HS-PT ngày 07/06/2024 của TAND tỉnh Quảng Ngãi

  • Số bản án: 63/2024/HS-PT
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Phúc thẩm
  • Ngày ban hành: 07/06/2024
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Ngãi
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Bị cáo Nguyễn Hoài V dùng tay đánh vào vùng mặt làm anh Nguyễn Thế H1 bị thương nặng dẫn đến chết
Tải về bản án